×
×

Mẹ chồng đi b-êu r-ếu với cả xóm rằng tôi lương có 5 triệu mà đi từ sáng đến đêm không biết chăm lo gia đình, tôi đợi đến đúng hôm họp họ, thuê nhà hàng làm cỗ toàn tôm hùm, mực nhảy, cá basa, bạch tuộc nướng,… lại còn bắc cái rạp to nhất làng, thuê dàn âm thanh xịn nhất huyện

Buổi chiều đó, con đường làng đầy những vệt bùn nhão, mùi rơm ướt trộn với mùi nước mắm phơi từ sân ai đó. Tôi đứng sau tấm rèm cửa bằng vải hoa nhạt, nhìn bà Trạc – mẹ chồng – lom khom chống nạnh trước cổng, miệng xéo xắc như dao chém gió:

“Cái con Hân ấy, lương có năm triệu mà đi từ sáng đến đêm. Đàn bà thế thì ra gì! Con tôi làm về mệt phờ, thằng Típ thì khát sữa, còn nó thì phấn son lòe loẹt.”

Tiếng cười hùa theo của mấy bà trong xóm vang lên như bầy gà đạp thóc. Tôi kéo rèm lại. Ngón tay dính chút nước mưa lạnh. Ở phòng trong, con tôi rên ư ử trong giấc ngủ, cái miệng chúm chúm như con cá bột. Tôi bế con, mùi tóc thơm mùi phấn rôm. “Ngủ đi,” tôi dỗ. “Rồi mẹ kể cho nghe một câu chuyện.”

Câu chuyện, tôi biết, nhất định sẽ không giống những câu chuyện người lớn trong xóm đang truyền tai nhau.


Tôi kết hôn hơi vội. Năm ấy, bố tôi đổ bệnh, nhà kẹt tiền, tôi dọn về sống gần nhà chồng cho tiện chăm nom. Chồng tôi – Đăng – khi yêu thì nhẹ như gió, lúc cưới rồi hóa người im lìm. Anh làm kế toán cho một công ty xây dựng, ngày nhồi số, tối nhồi mệt. Mệt, nên thay vì hỏi, người ta lặng im. Lặng im, nên thay vì tin, người ta ngờ vực. Tôi đi từ sáng đến đêm, anh không hỏi đi đâu. Có đêm về, anh chỉ đặt bình sữa rỗng lên bàn, nói như đọc số: “Hôm nay con uống ba bình. Em… liệu.” Lần duy nhất anh nói dài hơn ba câu là khi mẹ anh kể đi kể lại chuyện tôi “đi làm về muộn không nấu cơm”, anh thở ra: “Em… kiếm được bao, nói thật.” Tôi trả lời: “Năm triệu.” Anh gật, mắt cụp xuống như chỗ tối dưới tán cây.

Năm triệu – con số tôi bịa ra, gọn lỏn như viên đá ném xuống giếng sâu. Nó không kêu “tõm”, nó chìm im lặng. Tôi không thích biện minh. Tôi mang trong người một thói xấu dai dẳng: làm xong mới nói, hoặc chẳng nói gì.

Sáng nào tôi cũng đi sớm. Tôi khoác chiếc áo mưa mỏng, đội nón lụp sụp qua đám bùn, gọi một chiếc xe ôm công nghệ đến ngã ba. Người ta bảo tôi “làm ở khu công nghiệp”, “đi buôn phấn buôn son”, “chạy bàn quán nhậu”, thậm chí “đi làm… chỗ đó”. Tin đồn là con cá lóc trong mương: càng quẫy càng đục nước. Tôi không so đũa với ai. Tôi chỉ mở điện thoại, kiểm tra email, lịch hẹn, tên nhà cung cấp tôm hùm từ Khánh Hòa chuyển ra, số container mực nhảy hạ bãi bốc dỡ ở cảng.

Tôi là Hân. Trước khi lấy Đăng, tôi đã lập ra một công ty chuyên cung cấp hải sản cao cấp cho chuỗi nhà hàng trong miền Bắc. Khởi nghiệp bằng số tiền tiết kiệm khi làm quản lý cho một tập đoàn F&B, tôi mở đường bằng đôi giày rách. Được một năm, tôi mở tiếp công ty logistic nhỏ – chỉ làm những “chặng cuối” mà ai cũng chê: giao hàng lúc ba giờ sáng, giải cứu lô hàng bị kẹt thủ tục, giữ lạnh những thứ bốc mùi chỉ chậm một nhịp là bỏ. Năm thứ hai, tôi mở ba cửa hàng quần áo mặt phố – bán những thứ đơn giản, sạch sẽ, không thương hiệu ồn ào – như một cái van xả rủi ro cho hai công ty kia. Tất cả những thứ ấy, tôi giấu kín như giấu bọc vải thơm trong tủ áo. Không phải vì xấu hổ. Mà vì mệt. Tôi mệt với việc mỗi đồng tôi có đều phải ghép với chữ “báo hiếu”, “báo đáp”, “chia phần”, “đã là dâu nhà này”.

Bà Trạc thích đếm, không phải tiền, mà là công. “Nhà này xây được căn bếp mới là nhờ con trai tôi,” bà bảo với bất kỳ ai ngồi xuống ghế nhà bà. “Con dâu… ờ thì nó cũng đi làm. Lương nghe đâu năm triệu. Cũng tội.” Rồi bà nghiêng đầu, tủm tỉm, “Chứ cứ đi từ sáng đến đêm, ai biết làm gì.”

Có lần, tôi đi ngang qua chợ, nghe bà đang nói. Tôi dừng lại, tay khựng lên trên đống lá chanh. Bà bán cá liếc tôi, tỏ vẻ ái ngại, nhưng không can. Ở làng, người lớn như rễ tre: cắm sâu, đan chằng. Ai dám gỡ?

Tối đó, tôi về nhà, ngồi xuống bên Đăng. “Anh,” tôi nói, “mẹ nói thế, anh nghĩ sao?” Đăng im lặng. Đôi mắt anh đi lạc đâu đó giữa cái kệ tivi và bức ảnh cưới. “Mẹ già rồi,” anh nói, “mẹ nói cho đỡ… buồn.” Nói xong, anh ôm gối quay mặt vào tường. Câu “buồn” của anh như mảnh sành. Tôi cầm nó, cứa thử vào da mình, thấy rớm máu.

Tôi quyết định chọn trận chiến khác.


Ở làng tôi, mỗi năm họp họ hai lần: giỗ tổ và cuối năm. Giỗ tổ năm nay, họ quyết dựng rạp to, mời người nhiều, thông gia các nhà đến đông như trẩy hội. Trưởng tộc – ông Thiêm – gọi điện cho tôi: “Con lo món tráng miệng giúp họ nhà ta. Con gái đi làm thành phố, chắc biết chỗ ngon.” Tôi “dạ” rất ngoan. Rồi tôi gọi cho quản lí sự kiện của một chuỗi nhà hàng thân quen: “Cho chị mượn bếp, mượn rạp, mượn cả dàn âm thanh nếu được. À, gửi chị bảng giá tôm hùm bông, mực nhảy Phan Thiết, bạch tuộc nướng, cá basa… loại ngon nhất. Bao ship, bao bày biện. Rạp phải to nhất làng.”

Bên kia im một nhịp rồi bật cười: “Làng nào chịu nổi chị.”

“Tôi không làm để làng chịu,” tôi đáp, “tôi làm để làng… thấy.”

Tôi cũng gọi cho Minh – cậu nhân viên thiết kế video. “Em dựng cho chị một clip. Nội dung: hành trình ba năm. Không logo, không tên thật, chỉ có hình: xe container chạy đêm, kho lạnh bật đèn, cảnh bốc dỡ, cảnh đồng hồ chỉ ba giờ sáng, cảnh nhân viên cười ăn bát mì gói, cảnh ghi bảng lỗ – lãi, cảnh mở cửa hàng quần áo, treo những chiếc áo trắng phẳng phiu, cảnh chị ôm con ngủ ở văn phòng. Cuối clip, hiện câu chữ: ‘Khi người ta nói tôi lương năm triệu’ rồi… mù tịt. À, thêm một đoạn cuối: thông báo đăng ký doanh nghiệp – xoá số CMND, chỉ giữ tên công ty và chức danh ‘Người đại diện pháp luật: Nguyễn Thị Hân’. Lúc đó cho phóng to.”

“Chị máu thế làm gì?” Minh hỏi.

“Vì người ta thích máu,” tôi bảo. “Nhưng máu mà bắn vào đúng gương, họ sẽ thấy mình.”

Ngắt máy, tôi thở ra một hơi dài. Tôi nhìn con đang ngủ, thấy những sợi tóc mỏng rung rung theo hơi thở. Tôi vuốt lưng con, nghĩ: “Mẹ không đánh nhau bằng nồi canh nhạt. Mẹ đánh bằng ánh sáng.”


Ngày họp họ, trời đổ nồm, sương ẩm bám vào áo như một lớp nhớt. Tôi dậy từ bốn giờ sáng. Đội bếp, đội rạp, đội âm thanh đổ về như hội chợ. Cái sân nhà thờ họ vốn chỉ đủ để dựng ba bàn nay căng một chiếc rạp lớn như sân khấu tỉnh. Dàn âm thanh hầm hố, loa to như cối xay. Mấy cậu thanh niên họ ngồi trố mắt, mồm há như chim non. Mấy bà đứng dựa tường, thì thào: “Cưới ai đây?”, “Nhà ai dám bắc rạp to thế?” Tôi cười, lòng bình thản như người đang thổi nến sinh nhật lần ba mươi ba.

Bà Trạc đến, mặc áo lụa tím, tóc uốn sóng. Thấy rạp, mắt bà sáng rỡ như trẻ con thấy tết. Nhưng khi nghe “Con Hân nó lo hết,” mặt bà sầm lại, như mây kéo ngang. Bà đảo mắt nhìn mọi người, cố ghìm vẻ ngạc nhiên để đổi sang dáng chủ nhà quen thuộc. “Nó mượn của chỗ nào đấy,” bà nói đủ to, “chứ lương nó có năm triệu…”

Tôi ôm con, ra chào trưởng tộc, cúi đầu, chào họ hàng. Đăng đứng ở góc, tay bỏ túi quần, nhìn tôi bằng ánh mắt khó hiểu. Tôi không tìm mắt anh. Tôi bận đếm nhịp trống trong ngực.

Bữa cỗ mở màn bằng… tôm hùm. Đĩa tôm đỏ au, thịt dày, đặt trên đá lạnh như những đoá hoa hồng băng. Mực nhảy được làm gỏi, bạch tuộc nướng thơm phức, cá basa hấp sả ớt đặt trên mẹt tre mới. Nồi lẩu tom yum đặt giữa bàn, khói bốc lên nghi ngút, hương thơm trần ai. Họ nhà tôi, vốn quen cỗ lòng lợn, giả cầy, măng mọc, hôm nay mắt tròn mắt dẹt. Ông Thiêm gắp miếng tôm, nói với người bên cạnh như la lên: “Ngọt thế!”

Ở dàn âm thanh, cậu kỹ thuật trưởng nhìn tôi: “Chị cho phát chưa?” Tôi gật.

Nhạc tắt. Màn hình led bật sáng. Cả rạp im. Một con đường ban đêm, bầu trời rủ xuống như tấm nhung đen. Ánh đèn xe container rạch một vệt vàng. Tiếng máy nổ rù rì. Tiếng người cười khẽ. Tiếng đồng hồ tích tắc đến 3h00. Camera lia qua gương mặt mấy người công nhân đang ngáp mà vẫn cột dây hàng nhanh như múa. Một kho lạnh mở cửa, hơi lạnh phả ra như sương. Những con mực còn lấp lánh, những con tôm hùm cựa nhẹ trong thùng nước mặn. Một dòng chữ: “Những thứ tươi nhất không thức dậy lúc 8 giờ sáng.”

Khoảnh khắc tiếp, cảnh một phụ nữ (chỉ thấy mái tóc và bàn tay) ký hợp đồng trong ánh đèn vàng; cảnh người phụ nữ đó bế một đứa bé trong văn phòng, đứa bé bú bình còn mẹ gõ laptop một tay; cảnh người phụ nữ đứng trước cửa hàng quần áo, sắp lên kệ những chiếc áo sơ mi trắng, kiểm tem giá; cảnh tờ giấy ghi lỗ – rồi lãi – rồi lỗ – rồi lãi – như nhịp tim đồ thị. Tiếp đến là khoảng màn hình đen, hiện câu chữ trắng: “Khi người ta bảo: lương năm triệu.” Dưới đó là tiếng ai đó cười khẩy – chỉ là một vệt âm thanh, không mặt.

Và rồi, những tờ giấy hiện lên như bươm bướm: giấy đăng ký doanh nghiệp của Công ty TNHH Dịch vụ Hàng Lạnh Bắc Thành, “Người đại diện pháp luật: Nguyễn Thị Hân”. Giấy đăng ký doanh nghiệp của Công ty Cổ phần Hạ Bình Logistic, “Chủ tịch HĐQT: Nguyễn Thị Hân”. Hình ảnh ba cửa hàng quần áo “Trắng & Ngày” ở ba mặt phố khác nhau, dưới mỗi tấm ảnh hiện dòng: “Chủ cửa hàng: Nguyễn Thị Hân.”

Tôi không lồng tiếng. Tôi để họ đọc, để mỗi cái tên va vào trán họ như một hòn sỏi. Mắt mọi người dán vào màn hình. Có tiếng “ồ” như gió thốc. Có tiếng lầm rầm: “Hân nào… Hân con bà Thái?” Bà Trạc đứng chết lặng một giây, rồi mặt bà đổi màu như ai vừa đổ nước mắm lên áo lụa.

Video tắt. Tôi bế con đứng lên, đi giữa hai hàng bàn. Dàn âm thanh bật một đoạn nhạc nhẹ, dây đàn mảnh như sợi mưa. Tôi đặt con vào tay cô út để rảnh tay. Mắt tôi quét một vòng, chạm đúng vào mắt Đăng. Anh giật mình như người bị gọi tên giữa lớp học. Tôi cầm micro.

“Tôi là Hân,” tôi nói, giọng vừa đủ. “Tôi là con dâu của mẹ Trạc, vợ của anh Đăng, mẹ của bé Típ. Ở làng, tôi được biết đến là ‘đứa con gái lương năm triệu đi từ sáng đến đêm’. Tôi không cãi. Vì một câu cãi ở chợ không mua thêm được hộp sữa. Tôi chỉ muốn báo cáo với họ nhà: hôm nay, cỗ này tôi làm. Tôi làm để báo hiếu tổ tiên, cảm ơn người đã cho tôi họ này, và cũng để xin một điều: từ nay, khi nói về tôi, xin mọi người gọi đúng tên.”

Tôi quay về phía bàn trên, nơi mẹ chồng tôi ngồi. “Mẹ,” tôi nói, “con đã nhiều lần muốn nói với mẹ rằng con không vô tích sự. Con không nói. Vì mỗi lần con mở miệng, con thấy mình đi ăn xin sự công nhận. Con thấy mình… thấp. Con không muốn thấp. Con muốn đứng thẳng lưng, kể cả khi người ta đồn con đi làm chỗ không sạch. Hôm nay, con dựng rạp to, mời món đắt không phải để khoe. Con mở màn chiếu giấy tờ không phải để hơn thua. Con làm để mẹ… bớt nói sai về con.”

Mấy bà rì rầm, mấy ông húng hắng. Tôi khoát tay. “Con còn một việc nữa.”

Tôi đặt lên bàn trước mặt Đăng một tập giấy, bìa xanh. Phòng hội im như bị rút hết hơi. “Đây là đơn ly hôn,” tôi nói. “Anh ký đi. Ký trước họ nhà. Ký trước tiếng đồn. Ký trước con.” Tôi quay sang trưởng tộc: “Ông làm chứng giúp con. Con không muốn con trai con lớn lên giữa những câu chuyện ‘mẹ mày kiếm được bao’ hay ‘mẹ mày đi đâu từ sáng đến tối’. Con muốn nó lớn lên biết rằng mẹ nó làm việc, và khi người đàn ông bên cạnh coi thường nó, mẹ nó đủ can đảm đi ra.”

Đăng đứng dậy, mặt trắng bệch. Anh nhìn mẹ, mẹ anh tránh mắt. Anh nhìn họ hàng, ai cũng nhìn xuống. Anh nhìn con – đứa bé đang ngủ, mí mắt mỏng như lá tre. Rồi anh nhìn tôi. “Em… em định ép anh trước mặt họ hàng?” Giọng anh lạc như dây đàn đứt. Tôi nói: “Không. Em định giải phóng anh.”

Có người bật cười, cụt lủn. Có người “xì” một tiếng. Có người hít vào khẽ như sợ thở ra to sẽ làm đổ bát nước mắm. Đăng cầm bút. Đầu bút chấm vào giấy run như chấm vào nước sông mùa lũ. Anh ký. Tên anh cong queo hơn thường lệ. Tôi ký. Tên tôi thẳng, như một cây bút chì mới chuốt.

Tôi gập tập giấy lại. Dàn âm thanh bật một nốt bass nhẹ như thở phào. Tôi cúi đầu chào họ nhà: “Con xin phép.”

Tôi bế con từ tay cô út. Tôi đi, sải chân qua dải thảm đỏ đặt tạm. Gió hất góc bạt rạp, mùi bạch tuộc nướng còn thơm ở cổ áo. Mấy đứa trẻ con kéo nhau chạy theo, reo “cô Hân ơi”. Tôi quay lại, vẫy. “Ăn cho hết đi nhé,” tôi cười, “để còn ra sân đá bóng.” Tiếng cười vỡ ra như bọt bia. Bà Trạc đứng dậy, gọi “Hân!”, nhưng cái tên rơi xuống sàn như một trái ổi chín rụng, không ai nhặt.

Tôi bước qua cổng làng. Ngoài cổng, chiếc xe van đang chờ, tài xế nghiêng người mở cửa. Tôi đặt con vào ghế an toàn, cài dây. “Đi thôi chị,” cậu tài nói. “Lên Hà Nội, kịp cuộc họp cổ đông ba giờ.”

“Chờ một chút,” tôi nói. “Tôi còn việc.”

Tôi bảo cậu ta mở cốp, lấy một chiếc hộp giấy dài, gói màu nâu nhạt. Tôi xách hộp, quay lại rạp.

Cả rạp ai cũng nhìn tôi. Tôi đi thẳng đến bàn mẹ chồng, đặt hộp trước mặt bà. “Cái này,” tôi nói, “con gửi mẹ. Là sổ tiết kiệm một tỷ đứng tên mẹ – tiền lãi dùng để mua sữa cho cháu, như mẹ hay nói. Con mở cách đây một năm, ngay sau khi đẻ Típ. Con không đưa vì sợ mẹ bảo con ‘mua chuộc’. Giờ con đưa, coi như trả công mẹ đã trông cháu tháng đầu.”

Bà Trạc há miệng. Mắt bà ươn ướt theo bản năng, rồi sắc lại vì sĩ diện. “Tôi… tôi không cần tiền cô!” Bà nói to. Tôi gật: “Con biết. Nhưng con cần con trai con biết bà nội nó không thiếu gì ngoài sự tin tưởng của con dâu.” Tôi cúi đầu: “Con đi.”

Tôi quay lưng. Lần này, không ai gọi. Tôi bước ra khỏi rạp, nắng bất ngờ ló. Mưa nồm rút xuống như ai vừa kéo tấm mền ẩm đi phơi.


Đường ra quốc lộ, bờ tre chạy dọc. Con tôi thức, mắt tròn xoe nhìn những vệt nắng chạy trên trần xe. Tôi mở điện thoại, có hàng chục tin nhắn. Một số không lưu tên: “Chị chơi lớn quá”, “Nể”, “Bà Trạc giờ chắc im”, “Anh Đăng… tội”, “Em ủng hộ chị”. Có một tin duy nhất tôi chờ: của luật sư – “Đơn hợp lệ. Ngày mai tôi nộp.”

Tôi nhắn lại: “Cảm ơn anh.”

“Chị…” cậu tài do dự. “Em hỏi thật, sao chị không nói sớm? Để làm gì… đến mức này?”

Tôi nhìn con: “Để biết mình không phải kẻ ăn trộm trong nhà mình.”

Xe chạy. Tôi gối đầu ra ghế, giấc ngủ kéo đến nhanh như mưa rào. Nửa chừng, điện thoại rung. Một số lạ. Tôi bắt máy. Giọng đàn ông già, khàn như người hút thuốc lâu năm: “Cô Hân phải không? Tôi là ông Thiêm.”

“Vâng, cháu chào ông.”

“Cô quay lại nhận một thứ. Cổng làng, quán nước bà Ba.”

Tôi bảo tài xế quay đầu.

Ông Thiêm ngồi đó, cái lưng còng như dấu hỏi. Ông đặt trước mặt tôi một cuốn sổ mỏng, bìa đỏ. “Sổ đất,” ông nói. “Mảnh sân nhà thờ họ. Người ta quyên góp mỗi năm một ít, mua thêm được bìa đất phía sau, định mở nhà văn hóa nhỏ. Cô cho tôi hỏi: cỗ hôm nay cô chi hết bao nhiêu?”

“Dạ, bốn trăm tám mươi triệu,” tôi nói thật. Ông gật gù. “Số tiền lớn. Ở làng, nhiều người sẽ trầm trồ, nhiều người sẽ khó chịu. Tôi già rồi, tôi không sợ khó chịu. Tôi hỏi cô điều khác: cô có… còn định ở làng này không?”

Câu hỏi ấy làm tôi khựng. Gió thổi, mấy chiếc lá tre chấm nhẹ lên mu bàn tay. “Chắc là không, ông ạ,” tôi chậm rãi. “Con tôi sẽ học ở thành phố. Tôi sẽ ở gần nơi tôi làm việc. Nhưng tôi sẽ về, ngày giỗ.”

Ông nhìn tôi, lâu. Rồi ông đẩy cuốn sổ bìa đỏ về phía tôi: “Cô cầm. Không phải sổ đất. Là sổ… ‘Họ’. Cô làm thủ quỹ họ từ năm nay. Tiền cô góp hôm nay – bốn trăm tám mươi – tôi ghi vào đây là ‘quỹ khởi nghiệp’. Ai trong họ muốn mở việc làm, đến gặp thủ quỹ. Cô xem mà xét. Tôi già, tôi không biết xét. Tôi chỉ biết… cô biết cách làm tiền đẻ.”

Tôi sững. Người đàn ông tóc bạc trước mặt bỗng như một cây tre cũ – cứng mà dẻo, biết cúi đúng chỗ. “Ông…” Tôi thấy sống mũi cay. “Ông tin cháu vậy sao?”

“Không,” ông cười, hóm hỉnh. “Tôi tin làng này cần học lại cách… tin. Cô khiến người ta nhìn. Giờ cô khiến người ta làm.” Ông đứng dậy, cài lại khuy áo, “À, còn chuyện nhà. Chuyện vợ chồng cô, tôi không xen. Nhưng nếu cô cần ai giữ cái rạp to đó mỗi năm, gọi tôi. Tôi vẫn thèm ăn bạch tuộc nướng.”

Tôi bật cười, cười như trẻ con vừa ăn vụng bị bắt gặp. Tôi cầm cuốn sổ bìa đỏ. Đấy là thứ tôi không hề tính trong kịch bản. Có những cuối câu chuyện thích bẻ lưỡi câu của người kể.

Tôi lên xe. Con tôi ngủ lại, môi chúm chím. Cậu tài nhìn tôi trong gương: “Chúc mừng chị.”

Tôi lắc đầu: “Chia buồn cho những ai còn nghĩ đàn bà chỉ có năm triệu.”


Một tuần sau, tòa gọi. Tôi lên ký nhận lịch. Đăng nhắn: “Gặp nhau một lát nhé.” Tôi đồng ý. Chúng tôi ngồi ở quán cà phê nhìn ra hồ, trời lấp xấp mưa. Đăng gầy đi. Anh đặt trước mặt tôi một tập giấy khác. “Anh cần ký nữa à?” Tôi hỏi, giọng bình thản. Anh lắc: “Không. Cái này… cho em.”

Tôi mở ra. Là một lá thư, viết bằng tay.

“Hân,

Anh không giỏi nói. Hôm đó, anh ký không phải vì khinh em. Anh ký vì nhận ra mình không xứng với em như cách này. Từ lâu, anh đã… tự ti. Mỗi lần mẹ nói ‘vợ mày lương năm triệu’, anh thấy mình… có quyền. Quyền gì cũng không biết. Em đi sớm về muộn, anh nghĩ em bỏ nhà. Em không nói, anh nghĩ em giấu. Em giấu, anh nghĩ em sai. Anh… sai. Xin lỗi em.

Anh đã xin thôi việc. Anh đang học làm lại: học lái xe tải đêm, học vào kho lạnh, học chuyện logistic. Không phải để theo em – em không cần anh – mà để anh thôi là người đứng bên mép cuộc đời em, chê nó rộng quá. Anh cũng gửi đơn xin quyền thăm con bình thường, không tranh nuôi. Anh sợ mình chưa đủ cái lưng thẳng để che gió cho con.

Chúc em bình yên.

Đăng.”

Tôi gấp thư lại. Tôi không khóc. Có những lời xin lỗi như hạt mưa: không ầm, chỉ thấm. Tôi nói: “Cảm ơn anh.” Rồi tôi lấy trong túi ra một phong bì, đẩy sang. “Cái này… hợp đồng. Công ty logistic cần người quản lí kho đêm ở chi nhánh Lạc Trung. Lương không cao bằng ở thành phố, nhưng… đủ để mua sữa cho Típ. Anh thử đi. Nếu làm được, tôi tăng. Nếu không, anh từ chối cũng được. Chỉ là – thôi đếm ‘công’ phụ nữ bằng tiền sữa.”

Đăng cười buồn: “Em vẫn châm chọc.”

“Em vẫn thẳng,” tôi đáp.

Chúng tôi đứng dậy. Không ôm. Không nắm tay. Không níu. Ly cà phê còn vệt bọt trắng sắp tan.


Ngày ra tòa, mưa vừa tạnh. Tôi đi một mình. Bà Trạc không xuất hiện. Tôi đoán bà đang bận đi chợ, bận làm những công việc khiến bà thấy mình có ích, bận đi kể với ai đó rằng “con dâu tôi láu cá lắm” – và có thể, trong một khoảnh khắc nào đấy, bà sẽ thêm, nhỏ đến nỗi chỉ mình bà nghe: “Nó giỏi.”

Thẩm phán đọc án. Gọn. Như kéo một đường chỉ. Chúng tôi đi ra bằng hai cửa khác. Tôi gọi xe. Trước khi lên, điện thoại rung. Một số lạ. Tôi nghe máy. Giọng đàn bà trẻ: “Chị Hân ạ? Em làm ở cửa hàng Trắng & Ngày – cơ sở Hai Bà Trưng. Em vừa gặp mẹ chị… à không, mẹ chồng cũ chị. Bà ghé, mua một cái áo sơ mi trắng. Bà nói ‘cái này… để đi họp họ’. Bà trả tiền lẻ, đếm kỹ lắm. Em hỏi ‘bà lấy cỡ nào’, bà nói ‘cỡ mà con dâu cũ của tôi mặc ấy’. Em nghĩ chị nên biết.”

Tôi ngẩn. Nắng tạt qua một mảng vỉa hè, sáng rực. Tôi nói: “Cảm ơn em.” Rồi tôi nhắn tin cho trưởng tộc: “Năm nay, rạp vẫn dựng như cũ. Con lo. Nhưng… món chính đổi sang cá rô đồng rang riềng. Cho đỡ ngán.”

Ông nhắn lại ngay: “Cô hết thích bạch tuộc rồi à?”

“Tạm,” tôi đáp. “Để dành ngày khác. Hôm đó, cho xin một góc rạp treo tấm bảng: ‘Quỹ khởi nghiệp họ Nguyễn – ai cần đến gõ cửa’. Và… nhớ đặt thêm một chiếc ghế, hàng đầu, cạnh ông.”

“Tôi đặt. Cạnh tôi,” ông nhắn.

Tôi cất điện thoại, bế con lên xe. Con tôi ú ớ, đôi tay nhỏ quờ vào cổ tôi, nóng ấm. Tôi hôn trán con, trán thơm mùi nắng.

Bên ngoài, trời xanh như vừa gội.

Và ở một làng nhỏ, có người đàn bà mặc áo sơ mi trắng mới, đi chậm qua con ngõ, miệng bớt xéo đi một chút. Bà đi họp họ. Có thể, khi ai đó hỏi “con dâu bà đâu”, bà sẽ đỏ mặt, lắp bắp, rồi – nếu chúng ta may mắn – bà sẽ nói một câu khác hẳn mọi lần: “Nó bận. Nó đi làm. Nó… giỏi.”

Đấy là cái kết bất ngờ tôi không ngờ tới, và cũng là cái kết duy nhất đáng để tôi dựng rạp to nhất làng: không phải để một người đàn ông kí tên rời khỏi đời tôi, mà để một người đàn bà học cách đổi một chữ trong câu chuyện của chính bà.

Related Posts

Our Privacy policy

https://cantho24.com - © 2025 News