×
×

Đi từ thiện ở Hà Giang, tôi bỗng thấy một em nhỏ có chiếc vòng y hệt tôi, hóa ra đó lại là…

Xe của đoàn từ thiện bò lên đèo như một con bọ ngựa mệt mỏi. Sáng Hà Giang đẫm sương, những dải mây mỏng quấn quýt vạt đá tai mèo, tiếng khèn ai đó tập thổi ở triền núi vọng xuống nghe như một lời gọi rất xa, rất cũ. Tôi ngồi gần cửa kính, bàn tay vô thức siết lấy chiếc vòng bạc ở cổ tay phải. Vòng đã xỉn màu, mặt trong khắc chìm một chữ duy nhất: Mây.

Mẹ bảo ngày tôi lọt lòng, bà xin thầy bản khắc đôi vòng bạc, một cái khắc “Mây”, một cái khắc “Mưa”, “để hai chị em con đeo mà nhận nhau nếu lỡ sau này… lạc,” mẹ nói, mắt nhìn sang bờ ao, nơi đám bèo dạt như những hòn đảo nhỏ. Tôi lớn lên chỉ với một nửa vòng, nửa kia đi đâu thì mẹ lảng, mỗi lần hỏi là bà lại kể một câu chuyện khác nhau: khi thì thất lạc ở chợ phiên, khi thì bị kẻ trộm cắp, khi thì… “để dành cho em con.” Em gái – cái từ mềm như sợi chỉ ấy – trong nhà tôi là một khoảng im lặng.

Chuyến đi này tôi tự nguyện đăng ký, sau một mùa đông cơ sở tôi vẫn dạy học ở Hà Nội cứ hắt hiu mãi, thấy mình cần lên nơi cao ráo hơn để thở. Cả đoàn chở áo ấm, chăn bông, sách vở, vài bao bánh ngọt. Đến xã Sủng Là, bọn trẻ xếp hàng trước sân trường tiểu học, áo cũ rách vai mà mắt sáng như sao.

Tôi bày sách, nói mấy câu nguệch ngoạc bằng tiếng Kinh chậm, cô giáo phiên dịch sang tiếng Mông. Một đôi mắt nhìn tôi từ hàng cuối – đen lay láy, viền mí quầng nâu như người hay thức đêm. Con bé chừng bảy, tám tuổi, tóc buộc bằng sợi dây vải xanh đã sờn. Nó đứng khép hai chân vào nhau, cánh tay phải ánh lên một vệt bạc. Tôi nhìn, tim như bị ai nhéo mạnh: trên cổ tay nó, một chiếc vòng bạc y hệt chiếc vòng của tôi. Nếu không vì mặt bạc mới hơn, tôi tưởng như đang nhìn cổ tay mình trong gương.

“Con tên gì?” tôi hỏi, giọng run đi, cố không nhìn chăm chăm vào cái vòng.

“Già Mí Lử,” nó đáp rành rọt, tiếng Kinh lơ lớ. “Ở Séo Lủng.”

Tôi cười, gật đầu như mọi lần bỡ ngỡ trước một cái tên vùng cao. Con bé cầm sách, cảm ơn nhỏ xíu, rồi chạy đi. Chiếc vòng bạc trên tay nó lấp lóa dưới ánh nắng ít ỏi. Và tôi thấy – ngay khi nó giơ tay vẫy bạn – mặt trong vòng khắc chữ: Mưa.

Tôi đứng chết lặng. Gió từ khe núi lùa xuống như ai mở một cánh cửa trong ngực tôi. Tôi không biết mình mừng hay sợ. Tôi muốn chạy theo con bé mà bỗng hai chân như dính chặt vào đất. Tôi đã nghĩ đến khoảnh khắc này nhiều năm, tưởng như nếu gặp thì sẽ khóc òa, sẽ gọi điện ngay cho mẹ. Nhưng bây giờ, tôi chỉ nghe tiếng mạch mình đập trong tai, từng nhịp dồn dập như trống phiên chợ.


“Vòng bạc hả?” Cô giáo tên Tâm rót cho tôi chén trà ngô, nghe tôi hỏi đã gật liền. “Ở đây ai cũng đeo. Nhưng vòng đôi khắc chữ như thế thì ít. Mí Lử không phải người bản địa đâu, nó được bà ngoại nhận về nuôi. Bà bảo nhặt được ở bên khe đá năm nó còn đỏ hỏn.”

“Nhặt được?” tôi nhắc lại, chữ nghẹn như hạt ngô mắc ở cổ.

Cô Tâm lúng túng: “Ờ thì… người vùng tôi hay bảo nhặt. Nhiều khi là con của người khác bỏ lại vì không nuôi nổi. Hoặc… kẻ xấu đem lên rồi bỏ rơi. Bà ngoại nó tên là Chía. Nhà ở lưng chừng dốc, đi bộ chừng nửa giờ.”

Tôi nhìn xuống cổ tay mình, chữ Mây như một vết mực cũ vẫn còn thơm mùi ngày mới. Tôi kéo vòng ra, lăn nó trên mặt bàn như lăn một đồng xu. Trong đầu, những mảnh chuyện mẹ kể về “em” chạy qua như nhữngđoạn phim bị cắt: có hôm mẹ nói em mất ngay sau sinh, có hôm mẹ nói em theo người ta lên núi, có hôm mẹ ôm tôi, thì thào: “Một ngày gió lạnh, người ta bế em đi, mẹ chạy theo không kịp.”

Tôi xin cô Tâm dẫn đường.

Đường lên nhà bà Chía là một dải đất đỏ hanh, đá tai mèo thò ra như những lưỡi dao cùn, cỏ may mắc vào ống quần. Bầu trời xám, mây sà thấp đến mức tôi tưởng đưa tay ra là chạm vào được. Bà Chía ngồi trước cửa, đang xe sợi lanh. Bà gầy, tóc bạc quấn vòng sau gáy, môi nhuộm chàm đã phai. Mí Lử thấy chúng tôi thì chạy ra sau lưng bà, thò một nửa cái đầu ra nhìn tôi, đôi mắt tò mò mà phòng thủ.

“Bà ơi,” cô Tâm nói bằng tiếng Mông, “chị này từ Hà Nội lên, muốn hỏi về cái vòng của Lử.”

Bà Chía nhìn tôi, ánh mắt như một con dao nạo mía, cứa từng chút lên ruột tôi. Tôi gật chào, đưa cổ tay, để lộ chữ Mây. Bà nhìn, miệng mím lại. Rồi bà quay vào nhà, lục trong góc, đem ra một cái túi vải cũ gấp tư. Bà đặt lên tay tôi, ra hiệu mở.

Tôi mở. Bên trong là một tờ giấy photocopy đã nhàu, góc giấy lấm bùn, in mờ dòng chữ: “Giấy ra viện – Khoa Sản – Bệnh viện 19/8.” Tên người mẹ: Nguyễn Lan. Ghi chú: “Sinh đôi – một bé gái cân nặng 2,6 kg – một bé gái cân nặng 2,3 kg.” Ngày tháng là ngày sinh nhật của tôi.

Tôi nghe đầu mình “uỳnh” một tiếng như ai đó đập một cái chày vào chõ đồ xôi rỗng. Tôi gọi điện cho mẹ, giọng tôi vỡ vụn như đá dưới suối: “Mẹ… có phải mẹ tên Lan? Mẹ sinh đôi ở 19/8 không?”

Bên kia im lặng. Rồi tiếng thở dài nén lại, tiếng khăn giấy sột soạt. “Ừ.” Mẹ nói khẽ. “Mẹ định nói khi con cưới. Mà đợi mãi, mẹ… không dám. Hôm ấy… có người phụ nữ từ Hà Giang đi chợ trọ, nằm chung giường bệnh với mẹ. Mẹ sinh đôi, người ta nhìn mãi, nói ‘chị may mắn’, mẹ cười. Đêm bão, có người nói cần chuyển bệnh nhân, phòng ồn ào. Mẹ tỉnh ra thì giường bên trống, em con cũng trống. Người bên cạnh bảo ‘chị kia mượn vòng bạc của con bé đeo chơi xí xớn, rồi đi đâu mất’. Mẹ chạy ra cửa, trời mưa như vỡ trời. Mẹ gào cổ họng. Không ai trả lời. Người ta bảo ‘nhầm thôi’. Mẹ cầm chiếc vòng còn lại, ôm con, nghĩ có lẽ Chúa thử mẹ. Mẹ mang con về, sống tiếp. Mẹ… xin lỗi.”

Khói bếp từ nhà ai đó trong bản bay lên, quyện vào trời. Tôi ngồi bệt xuống bậc, điện thoại rơi ra khỏi tay, đập vào đá kêu một tiếng khô khốc. Mí Lử hoảng, chạy lại nhặt máy trao tôi. Bàn tay nó bé, ấm và khô như một mẩu nắng. Tôi cầm tay nó, lật cổ tay, nhìn chữ Mưa khắc bên trong. Nét khắc hơi cạn hơn vòng của tôi, nhưng cùng một bàn tay khắc.

“Em thích vòng này không?” Tôi hỏi.

“Nó kêu leng keng,” Lử đáp, lắc cổ tay, tiếng bạc chạm nhau lách cách. “Bà bảo đeo để biết ‘người nào đó’ sẽ tìm về.”

Bà Chía ngồi xuống bên tôi, nói chậm rãi bằng tiếng Kinh thô ráp: “Có một người đàn bà từ xuôi lên nhiều năm trước, đi theo đoàn chở áo ấm. Bà ấy gầy, ôm trên tay cái túi vải như ôm con. Bà dừng trước cổng, nhìn vào bếp nhà tôi, rồi quay đi. Tôi biết người đó tìm. Tôi sợ. Vì lúc ấy bọn buôn người mới vừa vòng qua. Tôi giấu Lử dưới gầm giường, nhét vào tay nó cái vòng, khấn lên tổ tiên ‘cho đứa nhỏ này có người tìm’.”

Tôi thấy răng mình cắn vào môi, mặn.

“Nhưng vòng này…” Tôi nói, “bà lấy ở đâu?”

Bà chỉ vào góc nhà. Ở đó, một chiếc hòm gỗ cũ để mở nắp. Bên trong là một xấp áo trẻ con đã ố. Trên cùng là… một cái vòng bạc nữa, giống hệt. Tôi với tay, nhấc lên. Mặt trong khắc chữ Mưa – y hệt chữ trên tay Mí Lử.

Bà cười, cười như không, như một cơn gió lướt qua nếp nhăn. “Khi nhặt Lử ở khe đá, trên tay nó có hai cái vòng y hệt. Tôi nghĩ… trời cho dư một cái để khi kẻ xấu cướp đi, còn cái khác. Tôi cho Lử đeo một, giữ một cất đi. Chẳng ngờ… chị lại lên.”

Tim tôi đập mạnh đến nỗi tôi sợ mình ngã. Tôi gọi mẹ thêm lần nữa. Mẹ khóc, tiếng khóc loãng như mưa: “Đừng nói gì vội. Con ở lại đó. Mẹ bắt xe.”


Chiều đến, mây lùa đầy bản. Bếp nhà bà Chía đỏ lửa. Bà nấu một nồi thắng cố, nhưng thấy tôi ngại, bà cười hiền, đổi sang nồi canh bí đỏ nấu với xương heo. Mí Lử ngồi bên cửa, vừa gọt táo vừa nói: “Mai có chợ phiên Sà Phìn. Có kèn, có váy. Chị đi không?”

“Đi,” tôi nói, giọng như một đứa trẻ vừa được mời chơi ô ăn quan.

Đêm, tôi nằm trên tấm đệm tre ở gian bên, nghe tiếng gió dắt nhau qua mái phên, nghe tiếng bà Chía ho húng hắng, nghe tiếng chân Mí Lử chạy nhẹ rồi dừng ở mé giường tôi, nghe nó thì thào: “Chị ngủ chưa?” Tôi giả vờ ngủ say. Nó đưa tay chạm vào cổ tay tôi, chạm vào chữ Mây, rồi chạy về chỗ.

Tôi nghĩ đến mẹ. Một người đàn bà ôm nửa vòng bạc sống suốt ngần ấy năm. Một người đàn bà khác ôm một đứa trẻ lạ sống suốt ngần ấy năm. Bầu trời như một tấm vải lanh rộng, ai cầm đầu nào thì cũng run tay.

Sáng hôm sau, mẹ đến. Bà bước xuống xe ở đầu bản, mái tóc bạc buộc gọn, mắt đỏ hoe vì cả một đêm không ngủ. Bà đứng trước cửa nhà bà Chía, đột ngột ngừng lại, bàn tay ôm ngực. Hai người đàn bà nhìn nhau qua làn khói bếp. Không ai nói. Mẹ tôi tiến đến, quỳ xuống. Bà Chía vội đỡ dậy. Hai người ôm nhau. Mí Lử đứng đằng sau, nấp một nửa người, nhìn mẹ tôi như nhìn một mảng gương soi ra mặt hồ.

Mẹ quay sang tôi, chạm vào cổ tay tôi, rồi chạm vào cổ tay Mí Lử. Bàn tay mẹ run.

“Con tên gì?” mẹ hỏi.

“Mí Lử,” con bé đáp.

“Ngày sinh?” mẹ hỏi tôi.

“Tám tháng mười một,” tôi đáp.

“Còn con?” Mẹ chạm vào vai Lử, thì thầm như sợ vỡ cái gì.

“Bà bảo… ngày mưa,” Lử cười, chỉ ra ngoài sân – nơi mây đang sà xuống, bong bóng nước li ti đậu trên lá ngô.

Mẹ khóc. Bà khóc như người vừa tìm thấy một chiếc khăn gói để quên ở chợ. Bà Chía đặt tay lên vai mẹ: “Đừng vội gọi. Gọi thì gọi dần dần. Trẻ con ở đây sợ tiếng khóc.”

Đêm đó, chúng tôi đốt một đống lửa trước sân. Cả bản qua, ai cũng tò mò về người đàn bà từ xuôi lên tìm con. Mẹ kể ít, bà Chía kể ít hơn. Tôi để ý trên gác nhà, một đứa bé trai ló mặt ra, rồi rụt vào. Bà Chía nói nhỏ: “Đứa đó là cháu họ, mẹ nó đi làm bên kia biên giới chưa về. Nhà này toàn đàn bà và trẻ con.” Tôi gật, bỗng thấy chân mình đặt vào một vùng đất rộng hơn những con đường đã đi.

Mẹ bảo muốn làm xét nghiệm ADN. Tôi nhờ cô Tâm viết giấy, hỏi cán bộ xã. Họ hẹn sáng mai xuống lấy mẫu. Bà Chía không phản đối. Bà ngồi đếm hạt ngô, nói: “Giấy thì phải có. Nhưng… như thế nào thì cũng còn cái này.” Bà chỉ lên ngực, nơi trái tim không ai nhìn thấy.

Tôi nhìn Mí Lử. Nó ngủ, tay vẫn đeo chiếc vòng bạc, miệng hơi hé, tóc rối. Tôi nhớ hồi bé tôi cũng ngủ hở miệng vậy, mẹ hay đùa “để muỗi vào mà nói chuyện.”


Kết quả ADN về sau đó một tuần. Tôi mở phong bì ở nhà mẹ, tay run đến mức xé rách cả mép giấy. Dòng chữ in lạnh lùng: Không loại trừ quan hệ mẹ – con. Tôi hét lên, một tiếng hét không hẳn là tiếng. Mẹ ôm tôi, rồi ôm cả khoảng không nơi lẽ ra Mí Lử đang đứng – con bé lúc ấy đang ở Hà Giang với bà Chía vì chúng tôi không muốn vội.

Tôi ôm kết quả, bắt xe ngược lên núi. Đến đầu dốc, tôi thấy bà Chía đang chẻ củi, còn Mí Lử chạy ra đón. Tôi giơ tờ giấy. Hai người đàn bà – một miền xuôi, một miền ngược – đọc bằng đôi mắt khác nhau mà cùng một nhịp tim.

“Giờ chị định sao?” cô Tâm hỏi.

Tôi không biết. Tôi không muốn bứt một gốc lanh đang bén rễ khỏi ruộng nó đã lớn lên. Tôi cũng không muốn để mẹ cứ chỉ ôm cái vòng mà gọi tên. Tôi đứng giữa sân, nhìn dây phơi áo treo những chiếc váy thổ cẩm, nghĩ đến những menu hạnh phúc không ai xếp sẵn.

“Con tính…” mẹ nói, nhìn bà Chía, giọng ngập ngừng hiếm có, “Con xin cho cháu… được ở với cả hai nhà. Mỗi học kỳ, mỗi mùa. Hoặc… mẹ lên ở đây với bà. Nhà con còn trống một phòng. Con biết dệt lanh kém, nhưng con học được.”

Bà Chía nhìn mẹ, rồi nhìn Mí Lử. Bà gật, gật như người đã nghĩ điều ấy trong đêm nhiều năm trước. “Trẻ con cần hai cái vòng,” bà nói, “một vòng bằng bạc, một vòng bằng tay người ôm.”

Mí Lử ôm cổ tôi, cười lộ cái răng sún: “Con có hai vòng!”

Tôi bật cười, cười đến ướt mắt.

Chúng tôi chia nhau thời gian như chia vạt nắng. Tôi đưa mẹ lên ở cùng một tháng, học bà Chía làm mèn mén, học phơi ngô, học luồn chỉ thổ cẩm. Mẹ xuống núi, đưa bà Chía và Mí Lử về Hà Nội một tháng, học đi chợ Hôm, học bắt xe buýt, học nghe còi xe mà không giật mình. Căn nhà của mẹ có thêm một cái giường tre đặt ở mé hiên cho bà Chía, bà nằm đó, ngó hàng me, nói “lá này đắng mà thơm.” Mẹ ngồi bên, cười: “Rau ngót nhà tôi nấu không còn đắng nữa đâu.”

Những ngày ở Hà Nội, Mí Lử đi học ở trường gần nhà, cô giáo bảo “cháu học nhanh lắm”, chữ nó viết hơi nghiêng như chữ của tôi hồi lớp ba. Mỗi tối nó gọi video cho bà Chía: “Bà ơi, con ăn bún chả”, bà cười, bảo: “Ăn ít thôi, đồ thành phố hay béo.” Những ngày ở Hà Giang, nó chạy trần chân trên triền đá, gọi video cho mẹ: “Mẹ ơi, con trượt chân ngã,” mẹ mắng yêu: “Đi chậm!” rồi cười rung cả khung hình.


Cái kết bất ngờ của chuyện này không đến bằng tờ giấy ADN. Nó đến vào một chiều chợ phiên, khi tôi địu Mí Lử ra sân trường xem người ta múa khèn. Một người đàn bà đứng ở rìa chợ nhìn chằm chằm vào cổ tay con bé. Người ấy tầm ngoài bốn mươi, áo khoác xanh bạc màu, mắt sâu và mệt. Khi con bé chạy qua, chị ta nhoài tay, nắm cổ tay Mí Lử, run bắn: “Cái vòng này… ở đâu?”

Tôi giật tay con lại theo phản xạ. Cô Tâm chạy tới: “Chị là ai?”

Người đàn bà khóc, khóc như một cái vòi nước vặn mãi không kín: “Tôi… là cô của nó.” Chị đưa ra một cái túi nylon cũ, bên trong là một nửa chiếc vòng bạc… y hệt. Mặt trong khắc chữ . Chữ bị mòn, nhưng nét đầu còn lại: một nét mũ “M”. “Ngày xưa,” chị nói, “chị gái tôi sinh đôi ở bệnh viện 19/8. Đêm ấy giông. Có người phụ nữ bế một đứa đi mất. Tôi làm hộ lý, bị đuổi việc vì canh phòng lơ là. Tôi ôm chiếc vòng này suốt mười mấy năm, đi khắp các đoàn từ thiện, các bản làng… Hôm nay, tôi thấy…”

Tôi đứng lặng. Gió trên đèo thốc qua, tiếng khèn lạc điệu hẳn. Người đàn bà đưa vòng cho tôi, nói như sám hối: “Không phải tôi… mà là cô ấy – bạn tôi – đã… lấy. Cô ấy mất rồi. Tôi chỉ còn nợ chị gái tôi một lời… đem về.”

Mẹ tôi tới đúng lúc, vì bà đã ở bản hôm ấy. Nhìn thấy người đàn bà, mẹ bàng hoàng: “Hà?” Hai người ôm nhau. Bà Hà nấc: “Tha cho em.”

Mẹ rưng rưng: “Em đi tìm suốt… Em không dám trách. Mỗi người một cái vòng của riêng mình.” Bà cầm tay Mí Lử đặt lên tay bà Hà: “Đây là chị em. Giữ lấy.”

Tối ấy, dưới mái nhà có hai người đàn bà và một bếp lửa, bà Hà kể hết. Cô bạn đã bế em tôi đi vì bị ám bởi cơn khát “có con bằng mọi giá”, sống lẩn lút rồi chết vì bệnh. Trước khi chết, cô dúi cho bà Hà cái vòng còn lại, thì thào một địa danh mơ hồ: “Bản đá… khe nước…”. Bà Hà tìm mãi không ra, cho đến chợ phiên ngày hôm đó.

Tôi nhìn Mí Lử. Nó ngồi gỡ cái bánh kẹo dính tay, miệng mấp máy đọc vần a, ă, â. Tôi thấy vận mệnh – thứ mà người lớn hay dùng như cái khăn choàng để sưởi ấm cho những sai lầm – bỗng nhỏ lại, vừa bằng một chiếc vòng bạc.


Một năm sau, mẹ và bà Chía cùng đứng ở cột cờ Lũng Cú, gió thổi tung vạt áo chàm và áo len màu be. Mí Lử đứng giữa, nắm tay cả hai, cười đến lộ cả lợi. Tôi chụp bức ảnh ấy, in hai bản, một treo ở Hà Nội, một treo ở Séo Lủng. Dưới bức ảnh, tôi viết một dòng nhỏ: “Có những sợi dây đi đường vòng để buộc chặt hơn.”

Mỗi năm, tôi lại cùng đoàn trở lên. Lần nào cũng thấy đâu đó trong đám trẻ một chiếc vòng bạc lấp lóa. Tôi dừng lại, nhìn – không phải để tìm – mà để念 một câu trong lòng: “Cầu cho cái vòng của con dẫn con về nơi nên về.”

Tối, tôi đặt hai chiếc vòng – MâyMưa – cạnh nhau trên mặt bàn. Mí Lử rụt rè tháo vòng, đặt bên vòng tôi. Bà Chía bảo: “Vòng bạc chỉ giữ tay. Tình thì giữ chân.”

Mẹ cười: “Và giữ mắt, để lần sau nhìn kỹ hơn.”

Tôi bật cười, cười thành tiếng vang vào vách đá. Đêm núi sâu và ấm. Ở đâu đó dưới thung, một con chó sủa ba tiếng rồi im. Gió đi qua mái, vừa đủ để cái chuông bạc chạm vào nhau, leng keng hai tiếng. Tôi nắm tay em. Em siết lại. Cả hai chiếc vòng khẽ chạm, phát ra âm thanh nhỏ như lời hứa.

Và tôi biết: điều bất ngờ nhất không phải là việc tìm thấy em bằng một chiếc vòng, mà là từ giờ, trên con đường từ xuôi lên ngược, chúng tôi sẽ đi không phải để tìm, mà để ở lại – ở lại trong nhau như một nửa chữ khắc sâu vào mặt trong của chiếc vòng bạc, nơi da chạm da, nơi người ta không nhìn thấy, nhưng luôn cảm được.

Related Posts

Our Privacy policy

https://cantho24.com - © 2025 News