×
×

Chị gái tôi vừa mất, anh rể tôi đã t-ái hôn với cô ruột của tôi, ngày cưới của 2 người, một người phụ nữ đặc biệt xuất hiện khiến cả hội trường t-ái m-ặt

Đêm trước ngày cưới của cô Hạnh và anh Quân, tôi thức đến gần sáng. Mùi nhang từ bàn thờ chị Hà quyện vào mùi nước hoa nhè nhẹ của lọ cắm huệ trắng mới thay, thành một thứ hương dằng dặc, vừa mát vừa đắng. Gió ngoài hiên lùa qua tấm màn ren, nâng dải khăn tang mỏng còn đặt trên khung ảnh chị, để nó khẽ rung như một tiếng thở dài không chịu tắt.

Trong nhà, mọi thứ đã được sắp xếp theo một trật tự mới, lạ lẫm như khi người ta đổi vị trí ghế bàn mà vẫn ngồi vào đúng chỗ cũ của mình: tấm phông đỏ căng giữa phòng khách, đôi câu đối mạ vàng bóng loáng, bức ảnh cưới in sẵn của cô Hạnh và anh Quân dựng nghiêng trên kệ gỗ, phía góc khuất là con gấu bông của bé Măng – con gái chị Hà – ôm một chiếc nơ sờn mép. Ánh đèn vàng rọi lên những miếng decal hình chim hạc, chúng đứng thành đôi, cổ vươn hướng về một chỗ nào đó tôi không biết.

Chị gái tôi, Hà, mất vào tháng Ba. Đợt mưa trái mùa kéo dài, chuyến xe từ miền núi về thành phố gặp sạt lở. Người ta bảo chị bị cuốn xuống suối, tìm được chiếc nhẫn vàng kẹt trong kẽ đá như một vệt nắng mắc vào rêu xanh. Đám tang chị lặng lẽ. Anh Quân khóc đến sưng mắt, cô Hạnh cõng Măng đi quanh nhà, tay phát kẹo cho khách viếng như sợ con bé nhớ mẹ mà đòi. Tôi đặt tay lên khung ảnh, ngón tay chạm vào làn da vô hình của một người không còn ở đây, tự nhủ: sẽ qua thôi, sẽ qua.

Nhưng chưa kịp qua, người ta đã rủ nhau về nhà tôi ăn cưới.


Mọi bà con đều có cách rỉ rả riêng. Họ ghé tai nhau thì thầm ngoài hiên: “Mỗi người mỗi phận… nhưng cũng lạ ghê.” “Vừa xong 49 ngày đã nói chuyện cưới, nej?” “Cô ruột mà lấy rể của anh trai mình…” Những dấu ba chấm trôi dọc theo mấy cái cột nhà sơn giả gỗ, dừng ở mắt tôi. Tôi ngẩng lên, mỉm cười như một người vừa học xong bài học “điềm tĩnh”. Bên trong, mẹ tôi bưng mâm xôi gấc đặt lên bàn thờ. Bà nhìn tôi, yếu ớt: “Hổm rày má nằm mơ thấy chị con.” Tiếng “chị con” đi qua cổ họng bà như hòn sỏi.

Tôi không biết phải trả lời thế nào. Từ ngày ba mất sớm, cô Hạnh – em ruột của ba – lăn lộn với mẹ con tôi không khác gì mẹ ruột thứ hai. Cô ở ngay nhà bên, cái sân nhỏ nối giữa hai nhà có hàng giấy đỏ leo qua leo lại như một cành tay. Khi Hà lấy Quân, cô cười rạng rỡ như người gả con gái. Họ yêu nhau từ lớp 12, đi qua những mùa hoa điệp vàng, qua kỳ thi đại học trầy trật, qua cảnh nhà Quân nghèo như gió mùa. Rồi một ngày, Quân mặc vest vừa vặn, cầm tay chị tôi trong lễ cưới, còn cô đứng cạnh mẹ, lau nước mắt.

Thế nên khi anh Quân nói sẽ cưới cô Hạnh, tôi nghe tiếng thủy tinh rạn đâu đó trong đầu. “Cưới… cô?” Tôi nhắc lại, sợ mình nghe nhầm. Quân im lặng, tay anh siết chặt quai ly cà phê, mắt đỏ ngầu vì đêm nào cũng thức dỗ bé Măng. “Hạnh bảo, làm vậy để Măng có đủ cả cha lẫn mẹ… để có người đứng tên cùng anh, lo giấy tờ cho nó vào trường, rồi nhà cửa…” Anh nói như người đọc thuộc một lời giải thích cho qua một bài thi khó. “Hạnh thương em, thương Măng. Anh… anh cũng muốn có người thân trong nhà đỡ đần.” Anh tránh mắt tôi. Ở góc quán, cái quạt máy rung rung, thổi vào nhau những lớp bụi cũ.

“Còn chị Hà?” Tôi hỏi nhỏ. Câu hỏi như rơi xuống mặt bàn, bật lên một cái búng tay khô.

“Hà… không còn.” Quân khép mắt. Ở khóe môi anh có một đường rạn như vết nứt mỏng trên chén sứ.

Lúc ấy, tôi đã không biết giận ai. Tôi đi về nhà, qua hàng giấy, chạm vào cái lá đỏ khô giòn. Nó vỡ tan trong tay.


Ngày cưới đến rất nhanh, như mọi ngày buồn đều có một thói quen khẩn cấp. Bàn tròn bọc khăn trắng, ghế phủ vải satin, những dải lụa kết hình trái tim treo dọc lối đi. Mẹ tôi vẫn xếp củ hành tím vào góc bếp như mọi lần trong nhà có cỗ. Bà bảo làm vậy cho đỡ hăng mùi dầu mỡ. Tôi thấy tay bà run.

Cô Hạnh mặc áo dài đỏ. Cô đẹp một vẻ đẹp lặng lẽ, sự chín chắn và ngượng nghịu quấn vào nhau như hai sợi chỉ lẫn lộn. Cô từ chối đội khăn đóng: “Cô già rồi, đội cái chi nữa.” Cô nói vậy mà mắt lại nhìn vào tấm gương lâu hơn bình thường. Tôi ghé sau lưng cô. “Cô,” tôi gọi, giữ tay cô trong lòng bàn tay mình. Tay cô lạnh. “Cô chắc chưa?” Cô nhìn tôi qua gương, nụ cười như một đường cong mỏi mệt. “An, đời không đi thẳng, con ơi. Trái tim mình có đường vòng, miễn là đi để quay về nhà.”

Tôi im. Tôi không hỏi vì sao cô và anh Quân lại vội nhau đến thế. Đôi khi người lớn có những vội vàng mà người trẻ không cách nào hiểu hết trọn.

Lễ gia tiên diễn ra vào buổi sáng. Họ hàng hai bên xếp thành hai hàng. Khói nhang bay chao, người ta lầm rầm khấn. Cặp đèn cầy đỏ run rẩy như hai kẻ say rượu.

Đến trưa, rạp cưới chật người. MC nói những câu quen thuộc, kể một câu chuyện lạc đề về bông hoa tự tìm thấy nắng. Con bé Măng – váy trắng, giày búp bê hồng – chạy lăng xăng giữa các bàn, đôi mắt tròn vo. Tôi gọi nó, bế lên. “Bữa nay, Măng ngoan, nha.” Nó gật, ríu rít: “Mẹ ơi…” Rồi nó chợt khựng lại, như nhớ ra, đổi giọng: “Cô ơi…” Tôi ôm chặt nó thêm một chút.

Và chính lúc MC hô “Xin mời cô dâu chú rể tiến vào”, khi tiếng vỗ tay chưa kịp rộ lên hết, khi bản nhạc “Ngày đầu tiên” mới lên được nhịp thứ hai, thì cửa rạp mở ra.

Một người phụ nữ bước vào, dáng gầy, mặc một chiếc áo nâu mộc, tóc búi gọn sau gáy. Trên cổ bà đeo một hạt chuỗi gỗ. Bà không son phấn, tay trái mang một chiếc vòng bạc mờ. Bà không phải dạng khách mời ai cũng biết. Bà bước chậm, nhưng mỗi bước đi uốn nếp im lặng của cả hội trường theo gót chân mình. Mọi tiếng nói cụp xuống, như những cái lồng bàn đậy vội lên bát canh nghi ngút.

Bà dừng ở thảm đỏ, ngước mắt. Đôi mắt bà sáng và sâu như hai cái giếng cổ. Bà đưa tay. Đằng sau lưng bà, một người khác xuất hiện, đội chiếc nón lá cũ, nắm lấy tay bà như nắm một sợi dây sinh mệnh.

Tôi đứng bật dậy.

Đó là… chị Hà.

Tấm nón rơi xuống, tóc chị xõa qua vai, bờ trán có vết sẹo nhỏ màu ngà. Chị gầy, nắng và gió hằn lên da một màu sậm, nhưng đôi mắt ấy… là đôi mắt tôi đã chạm vào qua khung ảnh suốt mấy tháng qua. Cả rạp dậy lên một tiếng “ồ” không thành hình. Mẹ tôi kêu khẽ, tuột khỏi tay cái muỗng canh. Con bé Măng cứng người một giây rồi bổ nhào khỏi tay tôi như con thỏ vỡ chuồng, lao về phía chị. “Mẹ! Mẹ ơi!” Nó gọi, tiếng gọi vỡ ra như hạt bắp nổ trong chảo nóng.

Chị dang tay. Hai mẹ con ôm nhau. Tiếng khóc của con trẻ, tiếng chị nấc, tiếng người lớn đưa tay bịt miệng. Anh Quân khựng lại trên thảm đỏ, mặt trắng bệch như tờ giấy in chưa mực. Cô Hạnh đứng bên cạnh, tay cô buông xuôi, rồi chậm rãi cài lại chiếc khuy áo trước cổ như người ta khép một cánh cửa.

Người phụ nữ áo nâu đặt tay lên vai tôi. Giọng bà trầm: “Con gái… đừng sợ.” Tôi quay sang, vừa gật vừa lắc, nước mắt trào ra không kịp dừng. Bà nhìn khắp lượt, gật đầu chào. “Tôi là Trầm. Tôi ở một mái nhà bên bờ biển. Tôi nhặt người này về giữa một đêm tháng Ba.”


Câu chuyện vỡ ra sau chừng ba chén nước trà. Bà Trầm nói bà làm việc cho một nhóm cứu hộ tự phát. Đêm chị Hà mất tích, mưa làm con suối mập ra như một con trăn. Người ta tìm một ngày, hai ngày không thấy. Thì ra, dòng nước quăng chị ra cửa sông — nơi có những con thuyền đánh cá ngư dân neo lại tránh lũ. Chị kẹt vào lưới, bất tỉnh. Ông lão chủ thuyền đưa chị vào bờ, bế vào chòi của bà Trầm. Chị không nhớ tên mình trong nhiều tuần, câu đầu tiên chị nói khi tỉnh lại là “đừng tắt đèn…”

Bà Trầm cười, miệng có một chiếc răng khểnh đã sẫm màu thuốc lào. “Ở chỗ tôi, không có giấy tờ gì, chỉ có người. Tôi nuôi chị ấy bằng cháo cá với nước dừa, chờ trí nhớ quay lại. Khi chị ấy nhớ được nhà, mấy đứa nhỏ trong xóm ôm chị khóc như gặp mẹ. Tôi nói: thôi, để chị ấy về nhà.”

“Vậy… sao đến bây giờ?” Người ta hỏi, giọng vỡ vụn vì một hột sạn vô hình.

Bà Trầm đặt tách trà xuống, ánh mắt chậm rãi như đưa tay qua một bụi gai. “Vì chị ấy còn một chuyện ở lại giải.” Bà hất cằm về phía tôi, rồi sang phía cô Hạnh, rồi dừng lại ở Quân. “Chị ấy sợ về giữa cơn giận. Sợ về khi hờn dỗi vẫn còn lửa. Sợ về lúc người ta chưa hiểu hết nhau.”

Chị Hà nắm tay con bé Măng, mỉm cười. “Em xin lỗi vì không về ngay.” Chị nhìn tôi. “Hồi nhớ được, em muốn về liền. Nhưng em biết nhà mình sẽ căm hận nhiều người. Em cần biết… sự thật. Em cần coi anh Quân có còn là anh Quân. Và em cần nghe cô Hạnh nói.”

Cô Hạnh gỡ chiếc trâm ra khỏi tóc. Tiếng trâm rơi vào lòng bàn tay nghe như tiếng một cánh cửa khép êm. Cô bước lên một bước, đứng thẳng lưng. “Chị Hà…” Cô gọi người mà lâu nay cô tránh gọi tên vì sợ bật khóc. “Cô… đáng lẽ phải nói với con An hết từ đầu. Nhưng cô sợ. Cô sợ làm rối cái nhà, mà càng nhịn càng dồn chuyện thành bịch.”

Cô quay sang cả rạp. “Cái đám cưới này… không phải đám cưới.” Cô mím môi, cười mệt. “Là cô dựng.” Tiếng xì xầm dậy lên như một bầy chim sẻ. “Cô dựng để lấy cớ tụ đủ bà con họ hàng. Cô dựng để anh Quân không chạy đi đâu. Cô dựng để… trả lại cho con Hà một căn phòng sáng.”

Anh Quân giật mình. “Hạnh…” Anh gọi như người lún chân trong bùn gọi kẻ đang đi trước. “Em…” Anh nhìn quanh, ánh mắt hốt hoảng như vừa nhận ra nơi mình đứng không phải đường nhà mà là miệng giếng.

Cô Hạnh nhìn thẳng vào anh. “Tụi mình ký giấy tờ gì hôm qua, anh nhớ không?” Cô hất mặt về phía một người đàn ông mặc vest đen đứng cạnh cửa – luật sư của cô, hoá ra đã có mặt từ trước mà không ai để ý. Anh ta mở cặp, rút một xấp giấy. “Đây là văn bản công chứng uỷ quyền tạm thời của anh Quân cho bà Hạnh trong việc đại diện cho bé Măng về nhân thân, tài sản và hộ tịch, cùng với biên bản thoả thuận tách bạch phần nhà ba má vợ để tránh bị kê biên do khoản nợ riêng của anh.” Luật sư đọc rõ từng chữ, cắt rành rọt như người mổ cá.

Không khí đặc lại. Từ góc phòng vọng ra tiếng ai đó nuốt khan.

“Anh ký vì nghĩ sẽ cưới được cô.” Cô Hạnh nói rất nhỏ, nhưng rành mạch. “Nhưng cô không cưới anh. Cô cưới… lý trí.” Cô cười nhạt. “Anh nợ người ta một khoản, anh nghĩ dùng căn nhà của ba má nó để cầm. Cô không để. Đó là lý do thứ nhất. Lý do thứ hai: Cô không thể nhìn Măng bị bứt ra khỏi lòng nó như một cái lá khỏi cọng. Cô cần một cái cớ hợp pháp, để đứng ra che cái mái này cho tới khi…”

Cô chợt nghẹn. Tôi hiểu chữ “tới khi” ấy đã chèo qua nhiều đêm làm cô mỏi rời.

“Tới khi chị Hà về.” Tôi nói hộ cô. Tôi nghe tiếng mình rơi xuống sàn, nhẹ như bông lúa.

Anh Quân đứng chết như tượng. Mặt anh không còn một màu nào ngoài màu tro. “Hà, anh… anh…” Anh lắp bắp. “Anh tưởng em chết.” “Không,” chị Hà nói, giọng dịu như bọt. “Anh tưởng em chết thì anh đỡ phải đối diện với nợ. Đỡ phải xin lỗi em vì những tin nhắn anh đã xoá, những lần đi công trình mà không có công trình nào, những đêm về muộn mùi nước hoa lạ. Em không chết. Em đứng trên bờ, nhìn anh ngồi với cô Hạnh bàn cưới, em hiểu: có khi mất tích không phải vì dòng nước, mà vì người ta muốn mất nhau.”

Anh Quân ngã phịch xuống ghế, hai tay ôm đầu. Nước mắt đàn ông rơi khó. Nhưng có những thứ không muốn rơi cũng rơi.

Một tiếng đập bàn vang lên: cậu Năm – em họ bên chồng chị Hà – nóng tính nhất nhà, ưỡn ngực. “Tóm lại, mấy người bày mưu bày kế, còn tụi tui coi như bù nhìn hả?” Cậu chỉ tay vào luật sư. “Đem công an tới luôn đi.”

“Không cần ai bắt ai.” Bà Trầm nói, giọng bà cứng như cái gọng nón. “Một mái nhà không phải to lên vì người ta vào ra, mà vì người ta biết đặt xuống giữa nhà những thứ nặng nhất. Hôm nay, mấy người đặt xuống rồi đó.”

Cô Hạnh bỗng lấy từ túi áo dài ra một phong bì niêm chì cũ, đặt lên bàn thờ. “Thư của ba tụi con.” Cô nói, nhìn hai chị em tôi. “Ba con đưa cô từ trước khi ông mất. Ông nói: ‘Có khi nào tụi nhỏ lạc đường, con giữ giùm cái đèn.’” Cô mở phong bì, rút ra tờ di chúc viết tay. Mực tím nhạt nhưng nét chữ còn sắc. Trong đó, ba để lại căn nhà cho “hai đứa con gái và mọi đứa cháu ngoại/cháu nội sinh ra từ hai đứa nó.” Không một chữ nào nhắc tới thông gia hay rể. Lý lẽ của người đã khuất nghiêng như chiếc thước gỗ cũ, đo một đường thẳng rất hiền.

Mẹ tôi bật khóc. Bà lau nước mắt bằng chiếc khăn tay đã bạc. “Ông ngày xưa vậy đó.” Bà nói giữa hai tiếng nấc. “Ông tính hết rồi mà không ai chịu tin.”

Anh Quân nhìn tờ giấy, mặt co giật. “Anh không tranh nhà.” Anh gần như hét. “Anh… anh chỉ muốn… anh chỉ muốn…” Anh dừng lại, như người nắm lọt tay một nắm khói.

Chị Hà đến bên anh. Chị không giận, cũng không trách. Chị chỉ đặt tay lên vai anh như đặt một nắm cát lên một chỗ ướt: “Anh muốn người ta đừng nghĩ anh tệ. Nhưng cái muốn đó phải bắt đầu từ chỗ anh đừng tệ.” Chị ngước nhìn cô Hạnh, rồi quay sang tôi. “Em An, cô Hạnh, bà Trầm đã giữ nhà giúp em. Bây giờ… mình dọn lại, được không?”

Cả rạp lặng đi như nghe tiếng một nhát cuốc đầu tiên rơi xuống miếng đất mới.


Sau buổi “cưới” ấy, người ta không mang cỗ về nhà chồng nữa. Họ mang ghế xuống, cuộn dây đèn, rút cọc. Măng ngồi trong lòng chị Hà, tay vẫn ôm chiếc nơ sờn mép, ánh mắt nhìn theo cái phông đỏ bị tháo xuống như nhìn một con diều vừa rút khỏi dây. Tôi sờ vào phần da dưới mắt chị, nơi chiếc sẹo nhỏ nằm như một dấu phẩy. “Đau không?” Tôi hỏi ngốc nghếch. Chị cười, nụ cười có mùi nắng. “Đi qua được rồi, hết đau.”

Chiều đó, chúng tôi làm mâm cơm nhỏ. Mẹ bày bát đũa như những năm cũ. Cô Hạnh thay áo lam, buộc tóc gọn, rửa đĩa nhanh như cơn mưa rào. Cô ngồi cạnh mẹ, bỗng chốc thấy nhỏ đi, không còn là “cô dâu” vừa rồi nữa mà chỉ là cô Hạnh của hai đứa chúng tôi, người từng nhổ tóc sâu cho mẹ, dỗ An ăn cháo bằng cách đếm những chiếc đũa. “Cô xin lỗi hai đứa.” Cô nói khẽ. Tôi lắc đầu. “Cô làm chuyện khó nhất rồi. Còn lại để tụi con.”

Đêm xuống. Ngoài hiên, hoa giấy rủ xuống một chùm đỏ như cái khăn phủ trên vai cô dâu lúc rút dâu về nhà mới. Tôi ra sân, thấy bà Trầm đứng nhìn lên trời. “Bà về liền hả?” Tôi hỏi. Bà gật. “Trên biển còn người đợi.” Bà ngừng một chút, rồi nói: “Đừng trách nhau dai. Cái bờ không dằn đá thật cao mà bờ mạnh là bờ biết khi nào mở cho nước vào, khi nào đẩy nước ra.” Tôi không hiểu hết ngay, nhưng tôi hiểu đó là một lời dặn.

“Tại sao bà biết mà tới đúng lúc như vậy?” Tôi hỏi thêm, tò mò như con nít. Bà cười, dấu chân chim ở đuôi mắt chụm lại: “Vì người ta nhắn. Cái người biết chuyện ở nhà này nhiều nhất.” Bà nhìn thẳng vào cô Hạnh đang đứng ở khung cửa, đôi mắt nâu của cô rọi ra ánh đèn bếp vàng. “Cô của con.”

Tôi nhìn cô. Cô cúi đầu. Tôi bỗng thấy rõ cô là một người đàn bà đã học cách giấu nước mắt vào những công việc nhỏ: vo gạo, nhổ cọng hành, cất tấm khăn bàn. Người như thế không chối bỏ trách nhiệm, họ chỉ làm nó xong trước khi kể.


Một tháng sau, người ta thấy trong xóm tấm biển nhỏ treo trước cửa nhà tôi: “Lớp học vỡ lòng – miễn phí.” Bên dưới là dòng chữ nắn nót của chị Hà. Mỗi chiều, mấy đứa trẻ trong xóm, đứa bỏ học vì nhà xa, đứa vì cha mẹ đi làm, đứa vì dịch bệnh lỡ mất lớp, xách cặp sờn mép đến ngồi bệt dưới nền, đọc ê a “ba bà bế bé bòng.” Cô Hạnh pha trà, thỉnh thoảng cầm thước gõ nhẹ vào mấy cái mông bé xíu vì tội nói chuyện, rồi cười hiền. Anh Quân… cũng đến. Anh cạo mái lại cho gọn, xin việc ở xưởng mộc gần nhà. Anh đón Măng tan học, một tay đỡ cặp, tay kia che đầu con. Anh không nói gì nhiều, lâu lâu mang về một ký cá lóc, nhờ mẹ kho tộ. Mẹ tôi ừ, bớt chao chát với anh dần như bớt muối trong chảo.

Có người hỏi tôi: “Rồi cô Hạnh và anh Quân…?” Tôi cười. Không ai nói tới chữ “cưới” nữa. Giấy tờ uỷ quyền còn hiệu lực đến khi chị Hà làm xong thủ tục thay đổi sau khi… quay về từ chỗ mà pháp luật gọi là “mất tích”. Từ đó về sau, họ ở chung một mái nhà mà mỗi người đều biết vị trí của mình: cô là cô của tụi tôi, và là người lớn đứng ra nói chuyện với thế gian khi tụi tôi đuối; anh là cha của Măng và là người đang học lại cách làm chồng, nếu mai này còn cần.

Có một buổi chiều, mưa rơi mỏng như tơ. Tôi ngồi trong bếp gọt vỏ trái cóc, chị Hà đem ra cho tôi xem một xấp giấy. “Đây là mấy tờ giấy cô Hạnh giữ hộ em hồi em chưa nhớ được.” Trong đó có sổ tiết kiệm mà chị cất cho đến ngày Măng vào lớp một, có mấy tấm ảnh chị chụp chợ miền biển – những người đàn bà ngồi sàng cá, có một tờ giấy bút chì: danh sách những người chị muốn cảm ơn. Tên đầu tiên là “Cô Hạnh”. Tên thứ hai: “Bà Trầm.”

“Em còn viết nữa.” Chị cười. “Viết thêm ‘An’.” Tôi xua tay. “Em làm gì đâu.” Chị lắc đầu, chỉ vào một góc giấy mỏng, nơi có vết vằn như ai đó đã khóc lên giấy. “Tên ai ghi trên nước mắt, người đó đáng kể.”

Tối ấy, khi tôi đi ngang phòng cô, tôi thấy cô đang cầm cái trâm đã rơi hôm cưới, nâng lên trước ánh đèn. Cô đeo thử lên tóc, rồi tháo xuống. Tôi gõ nhẹ vào cửa. “Cô à…” Cô quay lại. “Mai con qua nhà bà Trầm đem ít đồ.” Cô gật. “Con gửi giùm cô lời cám ơn.”

“Tự cô đi chứ.” Tôi nói. “Chuyến sau.” Cô cười. “Cô còn mắc cái nhà.” Nụ cười ấy làm tôi muốn đứng bên cô thêm một lát như đứng dưới một mái hiên mát ngọt.


Vài tháng sau, cả nhà làm giỗ ba. Lần đầu tiên kể từ ngày chị Hà trở về, tôi thấy mẹ ngủ trưa được một giấc đầy. Mùi nhang chậm rãi bước qua thềm như một người bạn cũ. Cậu Năm, người hay nóng, bữa đó cũng cười rổn rảng, nhắc chuyện ngày xưa anh Quân đá bóng văng bể cái chậu kiểng của má. Cả nhà cười. Măng chạy vòng quanh, rồi dừng lại ở chỗ bức ảnh cưới treo trên vách – bức ảnh của cô Hạnh và… không có ai bên cạnh. Bức ảnh ấy là do anh thợ ảnh chọn nhầm khung, để quên tấm cắt ghép. Cô Hạnh không tháo xuống. Cô bảo: “Đẹp mà. Đời có khi nên có một tấm hình người ta đứng một mình.” Tôi nghĩ, cô đúng.

Khi khách khứa ra về gần hết, có một người đàn ông dừng ở cửa. Trên tay ông là một gói giấy báo bọc cẩn thận. “Nhà mình cho tôi gửi.” Ông nói, giọng khàn như người hay la sóng ngoài biển. “Cái này bà Trầm nhờ.” Tôi mời ông vào. Ông đặt gói xuống, gỡ lớp báo ra. Một cái nón lá mới. Ở mặt trong, chỗ chóp nón, bà Trầm khắc bút bi những dòng chữ nghiêng nghiêng: “Cho mái nhà trên cạn. Gió biển đã qua. Gió đồng gió nội cũng mát.”

Tôi đưa nón cho cô Hạnh. Cô đội lên, nghiêng đầu. Cái nón vừa vặn. Cô cười, cái cười ấm đến mức tôi nghe tiếng một con chim nào đó hót trong bụng mình.


Đến đây, tôi nghĩ câu chuyện đã khép. Nếu ai hỏi: “Một đám cưới không cưới rồi thành cái gì?” – tôi sẽ nói: thành một buổi sum họp. Thành một lần người ta dám đặt những sự thật nặng nhất xuống giữa nhà, nghe chúng rơi một cái “bịch” không dễ chịu nhưng cần. Thành một cơ hội để những người đàn bà trong nhà – mẹ tôi, cô Hạnh, chị Hà – đứng cạnh nhau như ba cái cột, chống cái mái này cho những cơn gió thổi qua mà không bật tung.

Nhưng đời vốn thích giấu một hạt bất ngờ ở tận đáy nồi canh. Vài hôm sau, cô Hạnh gọi tôi ra sân. Cô đưa tôi một tờ giấy mỏng xíu, như một mảnh da hành. Đó là giấy đăng ký… kết hôn của cô. Tôi ngạc nhiên. “Cô…?” Cô cười xoà, lắc đầu. “Không phải với ai trong nhà mình.” Cô nhìn ra hàng rào giấy đỏ. “Là với một người ở tận bên kia biển. Người ta chờ cô lâu rồi, cô cứ khất. Hôm nay cô thấy cô có thể đi thẳng một đoạn của riêng cô được.” Tôi nhìn chữ ký của cô – nét chữ ngang dọc gọn gàng – và thấy trong lòng như có ai thắp một ngọn đèn dầu con.

“Còn anh Quân?” Tôi hỏi. Cô nhún vai. “Anh ấy có đường của anh ấy. Ai cũng vậy. Cũng như nước, cuối cùng cũng phải tự tìm ra sông của mình.”

Tôi gật, nghĩ đến những ngày chị Hà ngồi dạy chữ cho bọn nhỏ, đến đôi mắt Măng sáng lên khi đọc trọn một câu không vấp, đến tiếng bà Trầm cười qua sóng điện thoại. Tôi nghĩ, cái “đám cưới” hôm đó thật ra chỉ là một màn vén, để người ta thấy rõ những con đường của nhau.

Bữa đó, trời có gió. Tôi treo chiếc nón lá bà Trầm cho lên một cái đinh cạnh cửa. Nắng xiên vào mặt trong nón, chữ bút bi mờ hẳn đi, như được ai đó thì thầm một lần nữa. Tôi nghe tiếng chị Hà từ bếp vọng ra, gọi Măng rửa tay. Tôi nghe tiếng mẹ sắp chén, tiếng cô Hạnh cột lại giàn mướp, tiếng tôi bật cười vì một chuyện lặt vặt. Tất cả những tiếng ấy, gom lại, thành một tiếng duy nhất mà nếu áp tai vào lòng, sẽ nghe rõ: tiếng nhà.

Và nếu ai hỏi, “Người phụ nữ đặc biệt hôm ấy là ai, mà làm cả hội trường tái mặt?”, tôi sẽ kể: là người nhặt chị tôi khỏi tay nước. Là người bắc cho nhà tôi một cái cầu. Nhưng kỳ thực, có hai người phụ nữ đặc biệt: một ở ngoài biển tên Trầm, một ở trong sân tên Hạnh. Một người đưa chị tôi về, một người dựng lên một đám cưới giả để trả lại cho chị tôi một mái ấm thật. Còn lại, mọi điều chỉ là hậu quả tốt đẹp của một lần dám chọn điều đúng, dẫu phải đi qua một con đường vòng.

Chiều buông, tôi thắp một nén nhang cho ba. Mùi huệ cũ đã phai, tôi thay bằng một bó bách hợp. Tàn nhang rụng xuống, tròn như những đồng xu lưu niệm. Tôi chắp tay, khấn một câu rất ngắn: “Nhà mình đủ người rồi, ba à.” Ở tấm kính khung ảnh, bóng tôi chồng lên bóng chị Hà, mờ mờ hai khuôn mặt. Chúng tôi nhìn nhau, không nói. Và tôi biết, từ đây về sau, có thể sẽ còn nhiều ngày gió bấc, nhưng cái mái này đã biết cách nghiêng đúng phía. Chỉ vậy thôi, cũng đủ ấm.

Related Posts

Our Privacy policy

https://cantho24.com - © 2025 News