×
×

Còng lưng trả n-ợ cho chồng sau 2 năm cưới nhau, ngày hết n-ợ, anh dẫn cô b-ồ về nhà ra mắt

Buổi sáng ấy, tôi xếp một tập giấy tờ đã mềm góc vào túi vải, khóa cửa phòng trọ trước khi mặt trời kịp dọi hết lên mái ngói loang vảy rêu. Con hẻm quen thuộc bốc mùi nắng mới pha lẫn mùi phở bò từ quán đầu ngõ. Tôi đi ngang qua những hàng rào xương rồng cắm đầy xi măng, chợt nhớ mình đã hai năm không trồng nổi một cái cây. Chỉ trồng được các khoản thanh toán đúng hạn, mỗi tháng, vào ngày mười lăm. Hôm nay là ngày mười lăm.

Ở cổng ngân hàng, chiếc đồng hồ điện tử đỏ như than hồng hiện 07:59. Tôi đứng dưới bóng cây bằng lăng, để cái mùi bột giặt còn vương trên tay áo bay đi bớt, rồi mới bước vào. Cô giao dịch viên trẻ, quen mặt tôi đến mức tự động kéo cái khay nhựa và nói: “Chị để chứng minh cùng sổ hộ khẩu bản sao vào đây ạ.”

Tôi mỉm cười: “Hôm nay em khỏi cần sổ hộ khẩu. Chỉ một biên lai cuối thôi.”

Cánh tay cô khựng lại, như người ta lỡ đếm thiếu một nhịp tim. Tôi đưa phong bì màu nâu, nghe tiếng bấm máy của cô lạch cạch. Rồi tiếng máy in rít ra tờ giấy trắng có một dòng chữ đáng giá hơn bất cứ bó hoa nào: “Khoản vay số 1423… đã tất toán.”

Tôi xin thêm một tờ xác nhận song ngữ. Cô giao dịch viên nhìn tôi lâu, đôi mắt như hiểu một điều gì đó: “Chúc mừng chị.”

Tôi gật đầu. Chỉ có một câu nói lặng thinh phát ra trong đầu, như tiếng thìa chạm tận đáy bát: Hết rồi.


Tôi lấy Lâm năm hai mươi bảy tuổi, tuổi đẹp, áo dài đỏ, ảnh cưới chụp bên biển. Bữa cỗ cưới ngày ấy bày đủ cả: gà luộc, xôi trắng, măng khô, và những lời chúc như xôi, dẻo và no nê. Lâm hiền, cười hơi ngại, nói năng ít. Tôi thương cái ít lời ấy, tưởng là chắc chắn.

Đêm tân hôn, anh nói khẽ vào tóc tôi: “Mai mốt mình mua cái nhà, có cái ban công nhỏ trồng hoa.”

Tôi ôm câu nói ấy mà sống. Cho đến tháng thứ tư sau cưới, Lâm mang một xấp giấy về nhà: Hợp đồng vay của một công ty tài chính, hợp đồng mua góp chiếc xe máy đắt tiền của thằng Sơn em anh, và một tờ cam kết viết tay của mẹ anh – bà Thoa – để “tạm thời dùng sổ đỏ nhà” làm vật bảo đảm. Anh bảo thua lỗ chút, làm ăn thất bát, cần xoay vòng. Tôi không biết “làm ăn” của anh là gì; anh không giải thích. Tôi cũng không hỏi. Lúc ấy, tôi tin.

Tiền nợ nhiều như những con chữ bé tí nhưng chồng chất. Lãi tính theo tháng. Tôi còn nhớ rõ những con số chạy như kiến lửa trên giấy: 2%… 3%… rồi khoản phạt trả chậm… rồi “phí dịch vụ quản lý khoản vay”.

Từ hôm đó, sáng tôi ở ngân hàng, tối tôi bán hàng online, cuối tuần nhận thêm việc nhập sổ sách cho một cửa hàng vật liệu. Trên bàn làm việc, tôi để một chiếc hộp thiếc đựng toàn biên lai. Mỗi lần nhét thêm một tờ, tôi lại thấy đời mình bớt một tuổi.

Mẹ chồng không nói gì. Bà Thoa đi chợ về, tiếng dép quệt nền gạch, tiếng dao thớt chặt chẽ như nhịp tim nhà này. Bà đặt lên bàn chén nước chè xanh và chén muối vừng: “Ăn đi cho có sức. Nợ nần rồi cũng xong.”

Chỉ có điều, “nợ nần” là số nhiều. Nhiều hơn số người ta ngờ. Hóa ra, trong nhà anh, nợ là thứ quả bầu quả bí truyền từ tay này sang tay khác, như cái nồi gang đời bà ngoại để lại. Anh Sơn thích đầu tư coin, thích xe đắt, và thích khoe bạn gái mới. Mẹ anh xem như “đàn ông phải có chút tiếng nói”, lấy sổ đỏ nhà đi cắm như lấy rau ngoài giàn, rút ra rút vào. Mỗi lần rút là một lần rách.

Tôi trả thay, không ai buộc, chỉ vì mỗi tháng, trước ngưỡng cửa thứ mười lăm, tôi hay mơ thấy tiếng gọi của một cái hố đen. Tôi không muốn rơi cùng tất cả vào đó.

Tôi bắt đầu viết. Không phải truyện, mà là dòng thời gian: ngày, giờ, số tiền, ký tên nhận. Tôi tự in thành từng sấp, kẹp ghim, cho vào bìa mầu khác nhau. Ghi âm những cuộc gọi “thiếu chị là không được đâu nhé”, lưu lại màn hình những tin nhắn “chị là người thụ hưởng”. Tôi làm vậy vì sợ. Mà cũng vì, sâu trong sợ hãi, tôi hiểu: sự im lặng không bảo vệ được mình.

Có lần, tôi bắt gặp tin nhắn trên máy Lâm – anh ngủ quên, điện thoại rung. Một cái tên hiện ra: “Tr…m Kế toán.” Dòng tin ngọt như mật ong mà dính vào thì kiến bu: “Anh qua không? Em chờ.” Tôi nhìn lâu như nhìn vào phần chữ chết trong mắt mình. Xóa đi hay giữ? Tôi chụp màn hình. Rồi chỉ đặt chiếc điện thoại lại ngay ngắn. Trước khi đắp chăn cho anh, tôi sờ lại hộp thiếc đựng biên lai, nghe tiếng giấy khẽ lạo xạo, như tiếng cỏ khô, như tiếng một ai đó thì thào đếm ngày.


Ngày hôm nay, trước khi bước ra khỏi ngân hàng với tờ xác nhận tất toán nhét trong túi, tôi tạt qua một nơi nữa: Chi cục Thuế. Tôi lấy số thứ tự, ngồi nghe loa gọi tên người ta, nhìn một ông chú to béo cầm tờ hồ sơ, lắc đầu lia lịa với cô cán bộ. Khi tới lượt, tôi đặt một phong bì dày lên bàn. Bên trong là bản sao các hợp đồng chuyển nhượng giả, mấy hóa đơn VAT viết tay của cửa hàng bà Thoa đã dùng để hợp thức những lô hàng “bắc một, bán ba”. Tôi không làm điều đó một mình. Tôi đã hỏi luật – lặng lẽ, cứ như người ta rải phân bón lên gốc cây vào ban đêm, không để ai biết, nhưng tới mùa thì nụ phập phồng.

“Chị cần gì?” cô cán bộ hỏi.

“Tôi muốn nộp hồ sơ đề nghị kiểm tra,” tôi nói, giọng điềm nhiên, “vì tôi nghi có hành vi trốn thuế và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Tôi không chắc, nên mong cơ quan xem xét.”

Cô ngước lên nhìn tôi, đôi mắt không đo được độ sâu. Người ta ở bàn này chắc đã quen với những con sóng ngầm.

“Tên người bị tố là ai?”

Tôi đọc lần lượt: Thoa (mẹ chồng), Sơn (em chồng), và cuối cùng là Lâm. Tôi không thêm họ tên tôi. Tôi chỉ thêm một dòng: “Tôi sẵn sàng phối hợp.”

Lúc rời khỏi đó, trời đã gần trưa. Mặt đường chói. Tôi đứng mua một túi bún riêu, thêm nhiều rau sống. Tôi ngồi dưới mái hiên nhà, ăn một mình. Lần đầu sau hai năm, bát bún có mùi vị rõ ràng: cà chua chín, riêu cua thơm, nước mắm vừa tay. Không hiểu sao, ăn xong, tôi bật khóc, khóc như người ta khóc sau khi vừa nâng một cái búa nặng mà đặt xuống được.


Chiều, Lâm gọi: “Tối cả nhà mình ăn mừng. Em nhớ về sớm.”

“Tôi còn đi gửi ít đồ,” tôi nói.

“Gửi gì nữa?”

“Giấy tờ thôi. Cho gọn.”

Anh ậm ừ, không hỏi thêm. Cái thói quen không hỏi ấy là thứ tôi từng yêu. Đến cuối cùng, nó hóa ra chỉ là một cái bóng dài của vô tâm.

7 giờ tối, nhà bày sẵn mâm. Gà luộc vàng, đĩa giò thái đều, bát canh măng thơm mùi hành. Đèn neon rọi trắng trần nhà đã chấm mốc. Bà Thoa ngồi đầu bàn, khăn hoa quấn hờ trên tóc, cười lạt: “Thế là hết nợ, hết đọa, con dâu cố gắng cũng đến ngày hưởng.”

Tôi rót nước chanh. Lâm về, áo sơ mi mới, mùi nước hoa lạ. Theo sau là một cô gái. Cô mảnh, mắt đen, môi tô màu đỏ vô tư. Lâm mở cửa, không thèm nhìn tôi, chỉ hơi hất hàm: “Đây là Trâm. Em ấy… anh đưa về ra mắt.”

Câu cuối cùng nấc trong cổ tôi như hạt xương cá mắc ngang. Tôi đặt cốc xuống. Trên tường, cái đồng hồ treo tròn nặng nề điểm một tiếng, như ai lỡ chạm tay vào chuông chùa. Em gái anh – bé Hai – đánh rơi chiếc thìa. Bà Thoa giật mình, rồi hỏi khẽ: “Ra mắt… là ra mắt cái gì?”

Lâm nhìn thẳng vào mẹ: “Ra mắt vợ tương lai.”

Không khí trên bàn cỗ sụp xuống như người ta kéo đi chiếc cột chống duy nhất. Tôi thấy môi mình run, không vì ngạc nhiên, mà vì cái lạnh. Cái lạnh không từ điều Lâm nói – tôi đã biết – mà từ cách anh nói: tỉnh bơ, như thông báo ngày mai trời mưa. Điều đó còn tệ hơn sự phản bội.

“Còn tôi?” tôi hỏi, giọng không to hơn tiếng muỗi.

“Ly hôn,” anh nói, “cho nó nhẹ.”

Tôi nghe có tiếng chén va nhau. Bà Thoa đập tay xuống bàn, giọng cứng như vỏ ốc: “Con nói cái gì vậy? Người ta trả nợ cho nhà mình rồi! Ít ra cũng để mẹ liệu liệu với làng xóm.”

Lâm nhếch môi: “Mẹ, nợ là nhà mình cùng gánh. Cổ tay đàn ông phải biết ngẩng cao. Con với Trâm yêu nhau thật. Với lại, cô ấy giỏi. Không phải ai cũng còng lưng mà trả hoài như người kia.”

“Người kia” là tôi. Anh không nói tên. Bàn tay tôi, đã từng lật dở từng tờ biên lai, giờ đặt lên đầu gối. Những hòn xương gà trên đĩa như những dấu chấm than thừa mứa, sỗ sàng.

Trâm – “vợ tương lai” – cúi đầu, nhỏ nhẹ: “Em xin lỗi chị.”

Tôi nhìn cô và bỗng thấy một thứ ánh sáng lạ – ánh sáng của ai đó còn trẻ, chưa hề biết cái giá của mỗi con số. Tôi không ghét Trâm. Tôi ghét ảnh mình trong mắt cô, nhỏ lại như một dấu ngoặc vuông.

“Anh muốn ly hôn,” tôi nói chậm rãi, “được. Nhưng trước khi nói chuyện đó, tôi có thứ muốn đưa.”

Tôi đứng dậy, vào phòng, lấy tập hồ sơ dày cộp, đặt lên bàn. Cả nhà nhìn. Lâm nhíu mày, bật cười: “Em lại bày giấy tờ gì?”

“Giấy tờ thôi,” tôi nhại lại lời mình sáng nay. “Cho gọn.”

Tôi mở nắp. Đầu tiên là tờ Xác nhận tất toán của ngân hàng. Tôi đặt nó trước mặt bà Thoa.

“Con dâu đã trả xong khoản vay 1423. Đứng tên người vay là anh Lâm, người bảo đảm là bà Thoa, tài sản bảo đảm là căn nhà này.”

Bà Thoa gật lia lịa, muốn hớp lấy chữ “xong”. Tôi đẩy tiếp một tờ nữa – Hợp đồng chuyển nhượng khoản nợ kèm Biên bản thỏa thuận giữa bên cho vay và bên bảo đảm, có chữ ký của bà. Bà nhìn qua, bình thản, chưa hiểu. Tôi dùng đầu ngón tay gõ nhịp nhẹ bên góc tờ.

“Tháng ba năm ngoái, khi ngân hàng yêu cầu bổ sung bảo đảm, mẹ bảo tôi đi năn nỉ xin giãn nợ. Tôi đã làm. Nhưng đổi lại, họ đề nghị chuyển đổi cấu trúc khoản vay – từ khoản vay tiêu dùng sang khoản vay có tài sản, và chuyển nghĩa vụ trả nợ chính sang cho tôi – người thụ hưởng duy nhất – để được hưởng lãi suất ưu đãi. Mẹ đã ký.”

Mặt bà hơi tái. Lâm ngồi bật dậy: “Nghĩa là sao?”

“Nghĩa là, từ tháng ba năm ngoái, khoản nợ đứng tên Tôi,” tôi nói rõ từng chữ, “và… tài sản bảo đảm – căn nhà này – được ghi nhận trong hợp đồng phụ lục là chuyển quyền thụ hưởng tài sản khi tất toán về người trả – tức tôi – nếu bên vay không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đạo đức theo thỏa thuận dân sự.”

Lâm phá lên cười: “Nghĩa vụ đạo đức gì? Hợp đồng mà có đạo đức?”

Tôi đưa tiếp Văn bản thỏa thuận nội bộ, có chữ ký Lâm, bà Thoa, và bé Hai – người ký làm chứng. Không ai nhớ đã ký những gì trong những ngày hoảng loạn, khi người ta nhìn thấy chữ “phát mại” như thấy dao kề cổ. Tôi thì nhớ. Tôi đã thuê một luật sư già, lặng lẽ, soạn một “thỏa thuận bảo toàn gia phong” – nghe tên mơ hồ, ai cũng gật. Nội dung ghi rõ: người hoàn trả toàn bộ khoản nợ có quyền định đoạt phương án sử dụng tài sản gia đình sau tất toán; mọi tranh chấp phát sinh từ hành vi ngoại tình, bạo lực, lạm dụng tiền bạc sẽ được xét là vi phạm thỏa thuận, bên vi phạm mất quyền ưu tiên ở lại nhà. Thỏa thuận ấy không phải văn bản pháp lý tuyệt đối, nhưng là chứng cứ để tòa xem xét ý chí các bên.

“Chị bẫy tôi!” Lâm đập tay xuống bàn. Bát canh măng sánh ra mép, rơi xuống nền thành một vệt dài như vết lưỡi dao.

“Không,” tôi nói, “tôi chỉ học cách viết ra điều mà nhà này chưa từng dám viết.”

Bé Hai lí nhí: “Hôm đó, anh say, chị bảo em coi chừng… chữ nào anh không hiểu chị đọc cho. Em tưởng… chỉ là giấy xác nhận thôi.”

Tôi quay sang Trâm, nhẹ nhàng: “Em làm kế toán, em hiểu giấy tờ. Em có thể đọc mục 3.2 và 4.1.”

Trâm cầm, môi nhợt lại khi thấy dòng chữ in đậm: “Mọi giao dịch tẩu tán tài sản trong thời gian chờ tất toán sẽ bị coi là vô hiệu.” Cô ngẩng lên, cái nhìn chạm vào mắt tôi như chạm một miếng kính mỏng: “Chị… đã tính hết ạ?”

“Tôi chỉ tự vệ.”

Lâm định nói nữa, nhưng tôi đặt thêm một phong bì mỏng. Bên trong là bản sao kê các khoản chuyển khoản từ lương tôi sang tài khoản mẹ chồng, từ tiền làm thêm sang tài khoản thanh toán khoản vay. Những dòng mô tả: “Trả kỳ 12/24”, “Trả phạt chậm 07”, “Bổ sung bảo đảm.” Tôi kẹp theo bản ghi âm – giọng của Lâm và mẹ anh, một đêm cách đây sáu tháng, khi họ bàn nhau chuyển bớt đồ trong nhà sang tên Sơn để “phòng trường hợp con kia làm bừa”.

“Ghi âm lén!” Lâm hét. “Cô đúng là đàn bà… hiểm!”

“Im!” – Bà Thoa hét lần đầu từ khi tôi về làm dâu. Bà nắm mép bàn. Tôi thấy ở cổ bà, một sợi gân xanh nổi lên như lưỡi rắn. “Mày làm cái gì vậy hả Lâm?”

Lâm há hốc. Đến lúc này, bà mới hiểu mối nguy. Không phải vì tôi, mà vì cái chữ “vô hiệu” ấy. Bà chồm tới, giật tập giấy. Tôi để bà nhìn đủ. Tôi không giấu gì nữa.

“Con gái,” bà quay sang tôi, giọng hạ hẳn, như người ta đột ngột nhớ ra cách nói nhẹ nhàng nhiều năm quên lãng, “thì… thôi bỏ qua đi. Tính nóng nảy của đàn ông…”

“Tôi không giận,” tôi nói. “Tôi đã cạn. Chuyện ly hôn, tôi đồng ý. Còn căn nhà, theo thỏa thuận, tôi có quyền yêu cầu tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời – niêm phong tài sản. Tôi sẽ làm. Nhưng đó chưa phải điều tôi muốn nói tối nay.”

Cả nhà dừng thở. Tôi rút một tờ giấy cuối – Giấy mời làm việc của Chi cục Thuế, gửi cho hộ kinh doanh nhà bà Thoa, và Thông báo tiếp nhận tố giác của Công an quận về hành vi lạm dụng tín nhiệm.

“Cái này…” bà Thoa đờ đẫn, như người ta bị rút một chiếc đinh khỏi cây cột nhà và thấy mái nghiêng. “Mày…”

“Tôi đã nộp hồ sơ,” tôi nói, “vì trong hai năm qua, tôi phát hiện nhiều hóa đơn giả và những khoản tiền hàng không vào sổ. Nếu cơ quan điều tra phát hiện sai phạm, họ sẽ xử lý theo pháp luật.”

Bà lảo đảo vịn ghế. Trâm vội đứng dậy đỡ. Cô run, còn run hơn tôi đã nghĩ.

“Tại sao?” Bà hỏi, như cuối cùng cũng hỏi một câu đáng hỏi. “Tại sao con làm thế?”

Tôi không trả lời ngay. Tôi nhìn quanh căn bếp, bức tường có dấu tách sơn nơi móc treo cái rổ. Rồi tôi nhìn những bàn tay. Bàn tay tôi nổi dày vết chai dọc các đốt, bàn tay Lâm trắng trẻo, bàn tay bà gân guốc vì cầm dao thái rau. Cái bếp này từng là nhà của tôi. Và nhà – như ai đó từng nói – là nơi người ta không sợ.

“Tại vì nhà này,” tôi nói khẽ, “đã không còn là nhà.”

Tôi đứng lên, ôm tập hồ sơ, bỏ lại trên bàn chỉ tờ xác nhận tất toán – cái tờ duy nhất tôi thấy nhẹ. Trước khi bước ra cửa, tôi quay lưng lại: “Ngày mai, tôi nộp đơn ly hôn. Tôi không lấy gì từ tủ quần áo. Chỉ mang theo giấy tờ của tôi. Còn chuyện khác, để pháp luật làm phần của họ.”

Lâm lao đến, như muốn chộp tay tôi, nhưng Trâm cản lại. Tôi nghe cô nói nhỏ, giọng bể ra: “Anh… thôi đi. Anh đã làm gì vậy hả?”

Ngoài sân, bụi chuối xô nhau trong gió. Tôi đi qua, nhớ lại câu nói đêm nào: ban công trồng hoa. Tôi không cần ban công nữa. Tôi sẽ trồng một cây xương rồng thật, để lần này, những gai của nó đâm vào đúng những bàn tay đáng phải cẩn thận.


Tôi chuyển ra một phòng trọ nhỏ khác, gần cửa sông. Mỗi chiều, nắng tràn vào phòng thành một vệt dài trên sàn gạch hoa. Tôi đặt cái hộp thiếc trên bàn, mở ra, lấy từng biên lai ra, vuốt phẳng, rồi bỏ tất cả vào một xấp mới: Xong. Tôi đem gửi một phần tiền tiết kiệm vào sổ riêng – lần đầu, mở tài khoản đứng tên tôi và chỉ tôi. Tôi mua một chậu lan ý cho bậu cửa, đầu tiên trong hai năm. Tôi đi làm về, tưới nước, lau lá. Tôi bắt đầu ngủ mà không giật mình trước giờ thứ mười lăm.

Một tuần sau, điện thoại reo vào lúc gần trưa. Số lạ.

“Chị là… vợ anh Lâm?” giọng con gái bên kia dập dềnh như thuyền giấy.

“Chúng tôi đang làm thủ tục ly hôn,” tôi đáp.

“Em là em họ của Trâm. Em… muốn hỏi chị một chuyện. Ở công ty em, người ta vừa kiểm tra kho quỹ. Thiếu. Trâm bảo là do chị… hại.”

Tôi tựa lưng vào ghế, nhìn ánh nắng rơi lên chậu lan.

“Tôi không hại ai. Nếu thiếu thì nên làm rõ. Làm kế toán phải giữ tiền như con giữ hơi thở.”

“Dạ…” – giọng cô nhỏ lại – “Em chỉ muốn nói là… Trâm giờ sợ lắm. Anh Lâm… cũng bị mời làm việc. Họ nói về mấy khoản chuyển khoản qua lại với cửa hàng nhà bác Thoa. Nhà anh ấy… rối lắm.”

Tôi im. Bên kia thở dài: “Chị ơi… Em nói vậy để chị biết. Chị đừng tin ai nếu họ bảo chị rút đơn. Mẹ anh Lâm bảo sẽ sang gặp chị.”

Tôi cám ơn. Cúp máy. Tôi không thấy vui. Tôi đi rửa tay – thói quen kỳ quặc cứ khi nào nghe thấy chữ “rối”. Nước chảy mát lạnh lên kẽ ngón.

Buổi chiều, tôi tới tòa nộp đơn. Cô cán bộ nhận hồ sơ, xem tỉ mỉ, cuối cùng gật: “Hồ sơ đầy đủ. Chị về chờ thông báo.”

Ra khỏi tòa, trời đổ mưa. Một cơn mưa rào, nước dựng thành màn. Tôi đội áo khoác lên đầu, chạy như con nít, cười một mình khi nước quất vào mặt. Có thứ gì đó trôi tuột khỏi tôi, nhẹ tênh.


Tin tức về nhà cũ đến gián đoạn như gió quẩn:

– Cửa hàng bà Thoa bị niêm phong tạm để kiểm tra sổ sách.
– Anh Sơn biến mất một ngày rồi xuất hiện ở đồn công an, khai “chỉ là làm theo lời mẹ”.
– Trâm nghỉ việc, có người nói cô được ông chú đưa vào một công ty khác, có người lại bảo cô dọn về quê.
– Lâm ở lại một mình trong căn nhà bị gắn văn bản niêm phong. Hàng xóm kể đêm nào cũng có tiếng bước chân người đi lại ở sân, sàn gạch kêu lọc cọc như răng va nhau.

Một đêm, điện thoại tôi lại sáng. Số của Lâm. Tôi phân vân. Rồi tôi bắt máy.

Giọng anh, lần đầu sau rất lâu, không còn kiêu căng. Chỉ khô như những sợi tre gió lọt vào: “Em… khỏe không?”

“Tôi khỏe.”

Anh hít sâu: “Anh… xin lỗi.”

Tôi nhìn ra cửa sổ. Dưới sân, chậu lan ý nở một bông trắng đầu tiên, cái mo mỏng như lá thư gấp vội. Tôi bất giác chạm lên ngực mình, thấy nhịp tim đều.

“Muộn rồi,” tôi nói. “Nhưng nghe vẫn dễ chịu.”

Anh không nói ngay. Rồi, như người ta cúi xuống rất sát để nói một điều bé xíu: “Nhà… tan rồi, Hân ạ.”

Tôi chậm rãi: “Tan được, thì có ngày xây lại. Không phải ai cũng có may mắn đó.”

“Tại sao em làm thế?” Anh hỏi, câu hỏi cũ của mẹ anh, mà giờ nghe như tiếng gió thổi qua phên nứa.

“Tại vì anh dẫn bồ về ‘ra mắt’ vào ngày em vừa trả xong món nợ mà nhà anh vay bằng sổ đỏ và bằng danh dự của em,” tôi đáp, không cần nhấn mạnh. “Tại vì em muốn cuộc đời em từ nay về sau, nếu có nợ, thì chỉ là nợ của riêng em, với chính em – nợ những giấc mơ, nợ những chậu cây chưa trồng.”

Bên kia im rất lâu. Tôi nghe tiếng anh thở, rồi tiếng tắt máy. Tôi đặt điện thoại xuống, thở ra. Không còn ứa ra một giọt nước mắt nào.


Vụ việc thuế kéo dài. Tòa mời tôi, rồi mời họ. Tôi mang theo hồ sơ, trình bày, ký. Tôi nói ít, tất cả còn lại là giấy tờ. Luật sư già ngồi cạnh tôi, mùi thuốc lào phảng phất trên áo ông như mùi của một loài cây cứng đầu. Có hôm, bà Thoa đứng ngoài hành lang, đôi mắt trũng sâu, bà định nắm tay tôi, rồi lại thôi. Tôi cúi chào. Không thù. Không thương. Chỉ một khoảng trống như cái sân nhà dọn sạch bát đĩa sau cỗ, lạnh và phẳng.

Ngày nhận quyết định của tòa về biện pháp khẩn cấp tạm thời, tôi chỉ nhìn qua, rồi để vào bìa, đem cất. Tôi không dọn về nhà ấy. Tôi chọn thuê một căn phòng nhỏ khác, nhìn ra sông thật gần, có ban công đủ treo hai giỏ dạ yến thảo. Tôi mua một bộ bát đĩa mới, sáu chiếc, màu trắng trơn. Buổi tối, tôi nấu một nồi canh chua nhỏ, bày ra bàn, ăn một mình mà không thấy mình lẻ loi.

Có người hỏi tôi: “Có vui không, khi khiến cả nhà họ ‘tan cửa nát nhà’ như thế?”

Tôi cười mỉm. Từ “khiến” nghe to quá so với tôi – một người đàn bà bé nhỏ, gom góp từng tờ giấy. Tôi không đẩy; tôi chỉ chĩa một chiếc đèn pin vào cái mái đã mối mọt sẵn. Ánh sáng soi vào đâu, con mọt sợ hãi bỏ chạy, để lại lỗ hổng. Sức nặng của chính những gì họ chất lên mới làm mái sụp.


Vào một sáng cuối thu, tôi nhận một bưu phẩm. Ngày ấy trời hanh, những chiếc lá me khô vỡ dưới chân người đi. Tôi mở ra: là một bó hoa nhài trắng, không thiệp. Mùi nhài lênh đênh trong căn phòng nhỏ. Trong đáy hộp, có một tờ giấy gấp bốn, dòng chữ run rẩy: “Cám ơn con đã giữ lại cho chúng nó một cơ hội.”

Không ký tên. Nhưng tôi nhận ra chữ của bà Thoa. Bà từng ghi danh sách khách mua nợ bằng chính nét chữ ấy, những con số gảy gọn.

Tôi đứng thật lâu trong mùi nhài, ngạc nhiên thấy cổ họng mình cay. Tôi đặt bó hoa vào chiếc bình thủy tinh, nhìn cánh hoa khép mở như những bàn tay nhỏ.

“Tôi đã giữ lại cái gì?” – tôi tự hỏi.

Có lẽ, tôi đã giữ lại phần công bằng mong manh, đủ để người ta biết giới hạn của sự tham lam. Có lẽ, tôi giữ lại cho chính tôi một cánh cửa, đi ra. Còn nhà họ, nếu còn sức, họ có thể học cách xây lại, với những viên gạch khác.

Chiều xuống, tôi mở cửa ban công. Ngoài kia, sông lặng. Một người chèo đò mặc áo tơi rách, tay khua mái chèo đều, chiếc đò chẻ đôi dòng nước. Tiếng gà ở đâu gáy muộn. Tôi khép cửa lại, tắt bếp ga, rửa bát, lau bàn, tưới chậu cây. Những việc nhỏ, không ai nhìn thấy, nhưng kết lại thành một đời sống. Tôi ngồi xuống, lấy giấy, viết dòng đầu tiên của một câu chuyện: “Ngày hết nợ, anh đưa bồ về nhà ra mắt.” Rồi tôi gạch đi, viết câu khác, bình thản hơn, chính xác hơn: “Ngày hết nợ, tôi được trả về tôi.”

Ngoài cửa sổ, một bông lan ý nữa vừa nhú. Trắng. Nhỏ. Tựa ngọn nến. Tôi chắp tay che bớt gió, để nó khỏi tắt. Và tôi mỉm cười – nụ cười nhỏ đến mức, nếu không nhìn gần, người ta sẽ chẳng nhận ra. Nhưng với tôi, nụ cười ấy đủ sáng cả một căn phòng.

Related Posts

Our Privacy policy

https://cantho24.com - © 2025 News