Tôi nhận cái túi vải nhỏ vào buổi trưa tháng tám, ngay trên bậu cửa sổ của căn hộ tầng mười, nơi gió nóng thổi qua những giàn điều hòa kêu rè rè. Hân – con dâu tôi – đứng khép nép, đưa thêm tờ năm trăm nghìn: “Mẹ cầm để đi đường cho đỡ chật vật.” Tờ tiền xanh óng trong tay nó, nhìn thì vô cùng lành lặn mà sao gợn buồn như một chiếc lá bị mưa đánh ngả sang một bên. Túi vải bằng thứ thô nâu, may vụng, sờ lên còn cộm đường chỉ. Tôi nghe tiếng con khóc oe oe trong phòng ngủ, tiếng bỉm lạo xạo, tiếng nước sôi lăn tăn từ siêu đun. Ba tháng nay, hầu như đêm nào tôi cũng nghe những âm thanh ấy.
“Thôi, mẹ về đây,” tôi nói, giọng cố giữ bình thản. “Ở nhà, ráng ăn uống ngủ nghỉ. Con bé mới sinh xong ba tháng, đừng cố quá.”
Hân gật đầu, môi mím lại. Nó chực nói gì rồi lại thôi. Nó đưa tay gạt sợi tóc bết mồ hôi ở thái dương, lộ cổ tay trơ gân. Tôi kịp thấy ngón tay áp út không còn chiếc nhẫn cưới.
Điệp – con trai tôi – hối hả lôi va-li ra cửa, vừa đi vừa nhắn gì đó trong điện thoại công ty. Thằng nhỏ làm ca đêm, dạo này tăng ca liên miên. Điệp bảo “mẹ thông cảm, công trình vào giai đoạn nước rút.” Ừ, việc gì đến tay nó mà chẳng “nước rút”. Tôi quen rồi. Hồi nó còn bé, mùa cấy mùa gặt nó cũng chạy nhong nhong, mẹ gọi mỏi miệng mới chịu vào phụ. Ấy vậy mà lớn lên lại siêng làm như trâu. Đời người có vòng đi vòng về kỳ cục vậy đó.
Tôi kéo tay nắm cửa, quay lại nhìn cháu nội đang ngủ trong nôi: cái miệng chúm chím, hai tay giơ lên như đang “đầu hàng” thế gian. Một cảm giác mềm nhũn tràn ra. Tôi đã ở đây tròn ba tháng, từ hôm Hân vào viện sinh. Tôi nấu cơm, giặt bỉm, xoa bụng cho đứa nhỏ chống đầy hơi, đêm thức dậy hai ba lần đun nước ấm lau người nó. Tôi tranh thủ đan cho cháu mấy cái mũ len dù trời nóng; đến lượt con dâu, tôi cũng nấu cháo móng giò, hầm bí đỏ, ninh xương cho nó gọi sữa về. Chẳng phải kể công, cũng chẳng mong lấy gì. “Con dâu là con gái,” tôi vẫn nghĩ vậy. Nhưng lúc Hân đưa tôi túi vải với tờ năm trăm nghìn, tôi đã nghe đâu đó trong ngực sụp xuống một mảnh vỡ nhỏ: hóa ra ba tháng trời rút cạn mình, công tôi đáng chừng ấy thôi.
Ở sân ga, tiếng loa phóng thanh khàn đặc, mùi khói sắt lạnh và mùi bắp luộc chen chúc. Tôi ôm túi vải, ôm luôn mớ suy nghĩ còn lộn xộn như lòng chảo vừa nhấc xuống bếp. Tàu chậm hai mươi phút. Tôi ngồi trên băng ghế chờ, lòng lẩm bẩm: “Mình mong gì đây? Người ta trẻ, người ta còn lo đủ thứ. Năm trăm nghìn cũng là tấm lòng.” Tự nhủ vậy mà cục nghèn nghẹn vẫn không tan.
Tôi lên tàu khi nắng đã nghiêng sang một phía. Ghế cứng, lưng dựa sơn đã tróc. Bên kia lối đi, một bà chừng tuổi tôi cầm túi nylon đỏ, bên trong là gà luộc và bánh gai bọc lá chuối, chắc đi thăm con. Bà hỏi tôi đi đâu về đâu. Tôi cười nhạt: “Về Thanh Hóa.” Bà gật: “Con dâu hả?” Tôi ậm ừ. Bà kể liền, miệng nhanh như tằm rút: “Con dâu bây giờ tính toán lắm. Tôi chăm một tháng, chúng nó đưa ba trăm. Nghĩ mà tủi.” Bà có vẻ chờ tôi hưởng ứng. Tôi ừ hử vài tiếng, bỗng thấy mệt vì những câu phán quyết sắc như dao ấy. Tôi không muốn sắp hàng chung một đội với người đang chờ đông đủ để oán trách.
Tàu chạy giật cục rồi êm dần. Tôi mở túi vải. Bên trong là một chiếc khăn vuông màu ghi, góc khăn có một bông hoa thêu vụng về bằng chỉ đỏ. Tôi chạm ngón tay lên bông hoa, cảm giác như chạm vào một nốt nhạc run run. Dưới khăn là một phong bì nilon trong suốt, nhét gọn ghẽ mấy tờ giấy gập ba. Tôi rút phong bì, bỗng nghe tim đập nhanh hơn. Đôi mắt già có lúc cũng biết hồi hộp chứ. Tôi kéo mép giấy.
Trên cùng là thẻ khám bệnh của bệnh viện Mắt Trung ương, ghi tên tôi, “bệnh: đục thủy tinh thể”. Dưới thẻ là hóa đơn tạm ứng và một tờ xác nhận lịch mổ: “Ngày 02 tháng 10, lúc 9h00. Chi phí: đã thanh toán.” Bên dưới nữa là một tờ giấy A4 viết tay, nét chữ nghiêng nghiêng của Hân.
Mẹ ơi,
Con không dám đưa tiền mặt cho mẹ vì biết mẹ không nhận. Con hỏi bác sĩ ở huyện, bác bảo gọi điện cho bệnh viện trung ương đặt lịch, con đặt rồi. Con cũng đóng tạm ứng hết. Mẹ cầm thẻ này, đến đúng giờ ghi trên giấy có điều dưỡng đón mẹ. Con nhờ chị Lan nhà đối diện đi cùng mẹ buổi đầu, con đã nói trước với chị, chị ấy sẽ qua đón mẹ từ sớm. Nếu mẹ không muốn lên, con gửi kèm số bác sĩ để mẹ gọi. Con biết mắt mẹ mấy năm nay mờ, mẹ giấu. Đêm con thức cho em bé bú, thấy mẹ tự lần mò thay bỉm trong bóng tối, con xót lắm.
Tờ năm trăm mẹ cầm đi đường. Còn cái túi vải này, con may vụng quá mẹ đừng cười. Khăn là con nhờ chị bạn thêu. Bông hoa chỉ đỏ là con cố thêu lấy. Con thêu xấu nhưng mong mẹ nhớ con thương mẹ. Con sợ nói ra thì ngượng, mẹ lại mắng “bày vẽ”. Thế nên con để giấy trong túi để mẹ đi đến nơi mới mở. Nếu mẹ thấy phiền, coi như con… vụng về.
À, chiếc nhẫn cưới của con, con cất tạm, mẹ đừng để ý. Thực ra con đem cầm để đóng tạm ứng. Hôm nào lĩnh lương, con với anh Điệp sẽ chuộc về. Mẹ đừng nói với ai kẻo ba mẹ con ở quê lại lo.
Cảm ơn mẹ vì ba tháng đã qua. Con biết con vụng. Nhiều lúc mẹ nói con cũng ứa nước mắt vì tủi, nhưng rốt cuộc, mẹ vẫn là người bế con ra mà bảo: “Đây là cháu nội tôi, tôi thương nó như thương con mình.” Con nhớ đêm con phát sốt, mẹ ngồi quạt cho em bé mà mắt trũng xuống. Con biết ơn mẹ lắm. Con không giỏi nói. Con mong khi mổ xong, mắt mẹ sáng lại, mẹ nhìn cháu cười một nụ cười như nắng mới.
Thương mẹ,
Hân.
Tôi đọc đến đấy thì tay run. Dòng chữ cuối cùng nhòe đi như mực gặp mưa. Tôi nghe tiếng bánh sắt nghiến vào đường ray, tiếng còi tàu rúc dài. Môi tôi khẽ bật ra một tiếng “ôi” rất nhỏ mà chính tôi cũng ngạc nhiên như vừa nghe ai đó nói hộ lòng mình. Ra là vậy. Ra là đêm nọ, tôi lục đục trong bếp bật đèn một lúc rồi tắt, bước đi như mèo vì sợ làm cháu giật mình, nó thấy. Ra là bữa tôi lỡ lời nói “Giá mà giờ có ít tiền, mổ mắt xong chắc tôi còn đan áo cho cháu nhiều hơn,” nó nhớ. Ra là chiếc nhẫn cưới… Tôi vội đưa tờ giấy lên sát mắt, muốn nhìn lại chữ “cầm”. Trời ơi, con bé đem cầm nhẫn thật. Tôi tưởng cái ngón áp út trống không là do nó rửa bát tuột, ai ngờ.
Tôi gấp thư, đặt lên đùi như đặt lên đó một đứa bé đang ngủ. Cái túi vải tưởng chỉ nhẹ như lòng bàn tay, giờ hóa ra nặng bằng cả một mùa gặt. Đột nhiên tôi thấy tờ năm trăm nghìn kia giống chiếc lá non đặt lên lưng trâu – không mang nổi gì so với cái mà người ta giấu kín trong lòng.
Tàu dừng ở ga tiếp theo. Bà ngồi đối diện nhìn tôi, cười nửa miệng: “Mở ra xem có gì không, hay toàn rơm rác?” Tôi biết câu đó vừa đùa vừa dai. Tôi chỉ lắc đầu, ôm túi. Đầu óc nhanh như bị cơn mưa đầu mùa đổ ào xuống, mát rượi. Tôi chợt muốn quay lại. Tôi muốn gặp con dâu ngay lúc này, trước khi lời cảm ơn trong ngực tôi nguội đi. Tôi muốn cầm tay nó, cái tay gầy gầy đang bỉm sữa mà thô ráp, bảo: “Mẹ xin lỗi vì nhiều lúc mẹ nghĩ hẹp.” Tôi muốn đi chuộc cái nhẫn ngay, bất kể phải bán mấy giạ thóc đang phơi dở ở sân.
Tôi đứng bật lên, giật sợi dây báo dừng. “Cô ơi!” Người soát vé ngạc nhiên. “Tôi… tôi xuống đây. Tôi quay lại.” Tôi nói một mạch, vừa nói vừa ôm chặt cái túi vải, như ôm một lời thú tội. Đến khi chân chạm nền ga, tôi mới thấy đầu gối mình mềm như bột. “Cô cứ bình tĩnh,” người soát vé bảo. Tôi gật, cười, nước mắt lại trào: “Tôi bình tĩnh mà.”
Tôi bắt một chuyến xe khách ngược về thành phố. Trời đổ mưa. Mưa móc những sợi dây dày đặc ngang mặt kính, xóa đôi hàng cây ven đường thành những dấu phẩy mơ hồ. Tôi ngồi ghế đầu, túi vải đặt sát người. Trong đầu là một cuộn băng tua đi tua lại: ánh mắt Hân nhìn tôi ở cửa, cái ngập ngừng như muốn nói gì rồi thôi; đôi tay luýnh quýy cài cúc áo cho con, cái cổ tay trơ ra, chỗ chiếc nhẫn cưới đã có một vòng vàng mờ nhạt; và bông hoa chỉ đỏ trên góc khăn.
Xe dừng đèn đỏ, tôi lấy điện thoại gọi cho Điệp. Nó nghe máy giữa tiếng gió: “Mẹ về đến đâu rồi?” Tôi nói: “Mẹ quay lại. Ở nhà à?” “Con ở công trình. Có việc gì hả mẹ?” Tôi nói: “Không. Mẹ chỉ muốn gặp Hân, có chút chuyện.” Nó im một nhịp rồi “dạ” nhỏ. Tôi vốn hay kiểu nói vòng. Nhưng lần này, tôi sẽ nói thẳng.
Căn hộ tầng mười vẫn mùi nước giặt và sữa ấm. Tôi bấm chuông. Hân mở cửa, nhìn tôi, sự ngạc nhiên còn chưa kịp hiện đủ trên mặt thì tay đã theo phản xạ đỡ lấy tay tôi. “Mẹ… mẹ quên gì à?” Nó hỏi, giọng nhỏ như hạt muối. Tôi dở túi vải, đặt cái phong bì lên bàn.
“Con,” tôi nói, “mẹ đọc rồi.”
Hân đứng như bị chôn chân. Nó vội quay vào phòng, chắc để giấu đôi mắt vừa rưng. Tôi theo sau. Cháu tôi đang ngủ, mái tóc lơ thơ ướt mồ hôi. Tôi kéo cái chăn siêu nhẹ lên ngang bụng thằng bé, vuốt nhẹ một vòng quanh đỉnh đầu nó. Gò má tôi nóng như mới đi qua bếp lửa. “Sao con không nói?” Tôi quay ra hỏi. Hân ngập ngừng: “Con sợ mẹ nghĩ con tính toán.” Nó cúi đầu: “Con… Con làm mẹ buồn phải không?”
“Tại mẹ,” tôi chặn lời. “Mẹ hay nói câu nặng. Mẹ lại tưởng nhiều. Con dâu mà. Mẹ cứ sợ con tính toán với nhà chồng. Nhưng con… con lo cho mẹ thế này.” Tôi giật mình vì nghe chữ “mẹ” bật ra khỏi miệng nó khi nó viết, và bây giờ là miệng tôi, cả hai “mẹ” chồng lên nhau, không còn biên giới.
Tôi nắm tay nó. Những đốt ngón tay nó lạnh. Tôi bảo: “Đi chuộc nhẫn. Ngay bây giờ. Mẹ có tiền.” Tôi mở tủ lấy cái hộp thiếc vuông tôi hay mang theo, trong đó có mấy chỉ vàng tôi để dành từ tiền bán gà, bán lúa và tiền con gái út gửi về tết năm trước. Tôi giấu kỹ dưới đáy va-li, đem lên thành phố phòng khi cần. Tôi mở vung hộp, mùi giấy cũ thoảng ra.
Hân giật mình: “Mẹ…” Nó lùi lại, hai tay xua: “Không, không mẹ. Con… tới tháng sau có lương…” “Tháng sau thì cũng chuộc,” tôi cứng giọng. “Nhẫn cưới là thứ không nên ở xó tối.” Tôi đẩy hộp về phía nó: “Con cầm đi. Đổi ra tiền mà chuộc. Mẹ chẳng phải phước đức gì, chỉ là mẹ muốn trời đất chứng kiến trong nhà này, không có ai bán đi cái đãnh lẽ có của mình vì lo cho người khác trong âm thầm nữa. Nếu có bán, thì cũng bán mà cho nhau biết, cùng nhau chuộc lại. Thế mới gọi là gia đình.”
Hân nhìn tôi lâu, môi run bần bật. Nó gục đầu xuống tay tôi, thật sâu, như cúi chào một điều gì vừa được đặt tên.
Tiệm cầm ở ngay khu chung cư, một dãy nhà cấp bốn níu nhau trong sân kín, biển hiệu xanh bạc vì nắng. Ông chủ tiệm nhìn thấy Hân, liếc tôi, rồi vắt khăn lau tay: “Cái nhẫn vàng tây hả? Tem còn dính. Ngày ấy cô cầm, nói để đóng viện phí cho mẹ chồng.” Ông cười nửa miệng: “Hiền đấy.” Tôi chợt hiểu người đàn ông bán đong lời khen này, chắc từng trông ra không ít chuyện đời. Ông rút ngăn kéo, lấy chiếc túi nho nhỏ, bên trong lấp lánh một vành vàng đơn giản. Hân run bắn, không dám đụng vào. Tôi cầm lấy, ấm tay. Tôi đeo nhẫn vào ngón tay con dâu. Nó khựng lại: “Mẹ…” “Để mẹ,” tôi nói, “mẹ trả nó về chỗ nó nên ở.”
Trên đường về, mưa tạnh. Những giọt nước còn lăn trên dây điện, long lanh như chuỗi hạt. Tôi chợt nghĩ đến nhiều thứ. Nghĩ đến mẹ chồng của tôi ngày xưa, bà Lự, người đàn bà nhỏ thó như cây tre, nói câu nào như mũi kim châm câu đó. Đêm tôi sinh Điệp, bà ngồi ngoài cửa buồng, nghe tiếng tôi rên, bà hắng giọng: “Con gái nhà ai sinh đẻ thì cũng thế, có gì mà làm như chết đến nơi.” Tôi tủi thân, thậm chí từng thề thốt rằng đời nào làm mẹ chồng tôi sẽ không như bà. Ấy thế mà đến lượt mình, có lúc tôi nghe giọng mình xóc ốc hệt như bà Lự, như thể truyền âm của những người đàn bà đời trước ngự sẵn nơi cổ họng. Có phải tính nết, nỗi sợ, sự dè chắt bị cấy vào mình từ ông bà? Có phải cái cách chúng tôi bảo vệ con trai không đúng làm vỡ từng dải lụa trong lòng con dâu? Có phải chúng tôi thương mà không tài nào nói ra cho ấm áp?
Chúng tôi đi qua một sân chơi, vài đứa trẻ lăn quả bóng nhựa đỏ. Tiếng cười của chúng chộp tôi khỏi những câu hỏi như dây trói. Tôi quay sang Hân: “Ngày mai mẹ ở lại mấy hôm. Lịch mổ còn hơn tuần. Mẹ muốn ở đây. Mẹ muốn ăn món gì con thích rồi nấu cho con.” Hân bật cười trong nước mắt: “Con thích canh chua nấu khế.” Tôi cũng cười: “Được. Nhưng đừng chê mẹ bỏ nhiều đường như mấy bữa trước.” “Không đâu,” nó lắc đầu lia lịa, “mẹ bỏ bao nhiêu con ăn bấy nhiêu.”
Ở nhà, Điệp vừa về, người còn mùi sắt thép. Nó nhìn chiếc nhẫn trên tay vợ, nhìn túi vải nâu trên bàn, nhìn mắt tôi còn ươn ướt. Nó bối rối như cậu bé bị bắt gặp ăn vụng chè đỗ đen. “Mẹ…” “Ơn trời,” tôi nói, “lần này con đừng xin lỗi. Con ôm vợ con đi, ôm vừa thôi kẻo nó khó thở. Rồi con phụ mẹ tắm cho cháu.” Nó ôm Hân thật, khẽ khàng. Tôi quay vào phòng, bế cháu ra. Thằng nhỏ tỉnh dậy, miệng mim mím, đôi mắt đen lay láy tìm vú mẹ. Tôi đặt cháu vào tay Hân. Vòng tròn của bốn người chụm lại, vừa khít căn phòng.
Đêm ấy, tôi nằm trên chiếc nệm mỏng ở phòng khách. Đèn ngủ vàng đục, tiếng xe ngoài đường xa như những đợt thủy triều nhỏ. Tôi mở túi vải thêm lần nữa. Dưới tờ thư, vẫn còn một tấm bìa cứng, tôi chưa kịp nhìn. Tôi rút ra. Là một bức ảnh cũ, in từ điện thoại: tôi đang bế cháu hồi tháng đầu, tóc tôi bù, mắt nheo, miệng cười to, lộ mấy cái răng đã rụng. Bên dưới, Hân viết: “Nụ cười mẹ là bông hoa con thêu dở.” Tôi đặt bức ảnh ngay đầu giường. Tôi thấy mình trẻ lại. Khi nước mắt con người rơi xuống để rửa đi một lớp muội, khuôn mặt họ thường sáng. Tôi tin vậy.
Hơn một tuần sau, tôi lên bàn mổ mắt. Khi thuốc tê tan dần, ánh sáng nhòe hóa thành một dải trắng đầy những hạt bụi lấp lánh, rồi nét dần, rõ như mùa nước nổi rút, lộ ra bờ bãi phơi nắng. Bác sĩ hỏi: “Bà thấy sao?” Tôi nói: “Tôi thấy… sáng.” Tôi bật cười. Cái cười dễ như thuở mười bảy.
Ngày tháo băng, Hân đưa tôi ra khỏi viện. Tôi nhìn trời lâu hơn, nhìn mấy chiếc lá bàng chuyển mép đỏ, nhìn một chú mèo vàng ngồi thè lưỡi, nhìn cái áo Điệp bạc vai, nhìn những nếp nhăn sâu trên mu bàn tay mình mà vẫn thấy chúng đẹp. Buổi tối, tôi xin nấu canh. Tôi băm xương, ninh nhỏ lửa, chần khế, thả rau thơm. Hân nhón muối, nhìn tôi, tôi gật: “Bỏ thêm chút đường. Mẹ biết con thích.” Nó cười.
Xong bữa, nó vào lấy cái túi vải, đặt lên lòng tôi: “Mẹ mang về. Lần này mẹ đừng mở trên tàu mới mở.” Tôi lườm yêu: “Con còn giấu gì nữa hả?” “Không,” nó lắc đầu. “Chỉ là con nhờ chị bạn thêu lại bông hoa cho trọn.” Nó lật góc khăn: ngoài bông hoa chỉ đỏ vụng về, thêm một bông hoa chỉ trắng, tinh tươm, những mũi đâm đều. “Hoa đỏ là con thêu phần con,” Hân nói, “hoa trắng là chị ấy thêu cho đẹp. Nhưng… con vẫn thích bông hoa đỏ hơn, vì nó giống con – vụng, nhưng cố.”
Tôi vuốt lên bông hoa đỏ, bỗng thấy sống mũi cay cay. Tôi nói nhỏ: “Mẹ cũng thích bông hoa đỏ.” Đấy là lần hiếm hoi tôi khen ai đó thẳng như thế. Hân chớp mắt: “Mẹ về nhớ đội nón. Trời miền Trung gió lắm.” “Mẹ biết,” tôi đáp. “Với lại, mẹ về sẽ kể với bà con rằng con dâu mẹ giỏi thêu bông hoa đỏ.”
Điệp bê ra chai rượu nếp cũ. Nó rót cho tôi một ly đầy như cái thói trước giờ, tôi gõ vào vành ly của nó: “Đừng đầy quá. Đầy quá dễ tràn.” Tôi cười: “Trong lòng cũng vậy.” Nó cười, hiểu. Hân pha cho tôi cốc trà nóng, đặt gần tay. Cả nhà ngồi im một lúc, như nghe một bài hát vô lời mà ai cũng biết giai điệu.
Sáng hôm sau, tôi lên tàu về thật. Tàu vẫn cùng tiếng còi, cùng ghế cứng, cùng gió nóng, nhưng tôi như đang đi trên một con đường hoàn toàn mới. Tôi đặt túi vải lên đùi, không mở. Tôi ngồi thẳng lưng. Tôi muốn đem trọn cái ấm áp này về nhà, đặt ở góc tủ gỗ nơi ảnh ông nội của Điệp còn nghiêm trang nhìn xuống, đặt ở giữa gian bếp nơi lò than vẫn đỏ lửa. Tôi sẽ kể cho bà con rằng con dâu tôi đem cầm nhẫn để mổ mắt cho mẹ chồng, rằng nó viết thư vụng về nhưng không sai một chữ, rằng nó thêu bông hoa chỉ đỏ xấu nhưng đẹp hơn tất thảy những bông hoa mua ngoài chợ.
Bà ngồi ghế đối diện (chẳng biết có phải bà hôm trước không, hay một bóng quen thuộc nào đó của đời tôi), hé túi bánh gai mời: “Bà ăn đi.” Tôi mím môi cười: “Cảm ơn, tôi mang bánh cáy với bánh nhãn đây.” Tôi mở túi lấy hộp bánh con gái gửi từ Nam Định, nghĩ bụng, lần sau lên thành phố, tôi sẽ làm món canh chua cho Hân như nó thích, sẽ hỏi nó học thêu bông hoa đỏ ra sao, để tôi cũng thêu một bông cho cháu.
Tàu về đến ga quê, trời trong veo. Tôi hít một hơi dài. Trên bậc thềm nhà, tôi đặt túi vải xuống, mở nhẹ, lấy bức ảnh tôi cười lúc bế cháu đặt lên bàn thờ ông, cạnh bát hương đang tỏa khói. Tôi rót chén nước, khấn: “Ông ơi, con mình nó tốt.” Khói hương cong như chữ “hiền”.
Khi quay vào, tôi mới để ý bên trong túi còn một mẩu giấy nhỏ gấp tư, chắc tôi vô ý chưa đọc. Tôi mở ra: là tờ giấy siêu âm lần trước, chụp lúc con mới năm tuần, góc trên đề chữ “Tên dự định: Trần Hoa – theo tên bà nội.” Tôi đứng chết lặng, như ai vừa đặt vào tay tôi một bông hoa nở muộn. Hóa ra con tôi, trong tất cả những tính toán trẻ tuổi, đã nghĩ cả đến tên tôi. Hoa – bông hoa đỏ tôi thêu dở trên đời, bông hoa trắng ai đó giúp tôi thêu cho tròn, bông hoa thật một ngày sẽ gọi tôi bằng “bà”.
Tôi cười thành tiếng, lần này không còn nước mắt. Ngoài vườn, cái giàn mướp tôi trồng từ mùa hạ đã ra những quả đu đưa. Gió thổi, lá mướp lật mặt bạc, loáng nắng. Tôi bưng túi vào, treo cạnh bếp, nơi tôi vẫn treo rổ tỏi. Tôi ngồi xuống, rót ấm trà xanh, đợi ánh chiều bò ngang sân. Tôi nghĩ đến hôm sau, đến tuần sau, đến Tết. Tôi nghĩ đến chuyến tàu lần tới tôi lại đi, tôi sẽ mang gì lên thành phố: mấy chai nước mắm, mấy bó húng quế, gói bánh nhãn, và cả những lời dịu dàng tôi đã học được muộn nhưng vẫn còn kịp. Tôi thấy con đường từ quê ra phố bỗng gần như khoảng sân giữa hai gian nhà.
Một túi vải nhỏ, một bông hoa thêu vụng, một tờ năm trăm nghìn. Có những thứ sinh ra để che kín phần còn lại lớn hơn bên dưới. Nhưng có những người lại chọn mở nó ra, đặt vào tay nhau ánh sáng. Và khi ánh sáng đã nằm đó, yên ổn, mọi câu chuyện trách móc tự nhiên mất chỗ để ở.
Tôi đứng lên, vươn vai, nhón chân. Từ nay, mỗi sáng, tôi sẽ tập thêu một bông hoa đỏ. Vụng thì sửa, xấu thì dỡ ra làm lại. Tôi muốn đến ngày cháu biết gọi tên, trong rương nhà nội sẽ có cả một vườn hoa đỏ bằng chỉ, chằng chịt mũi đâm của những người đàn bà đã khóc và đã cười với nhau, cùng sống một đời lận đận mà ấm.
Và trong chiếc túi vải nâu treo cạnh bếp, có một bông hoa nữa đang chờ nở – bông hoa mang tên Hoa.