×
×

Lũ lụt khiến gia đình tôi ở Thanh Hóa mất trắng, bố vợ từ Hà Nội gọi điện mắng tôi t-é t-át vì không lo được cho con gái ông

Buổi tối thứ ba sau lũ, mùi bùn non còn vắt trong không khí như một thứ mồ hôi của đất. Tôi đứng dưới hiên nhà – à không, phải gọi là chỗ còn lại của cái hiên – nhìn vệt nước bẩn bốc mùi từ tường rút dần xuống. Đồ đạc lềnh bềnh: ghế nhựa úp mặt vào nhau như sợ hãi, cái radio cũ của mẹ tôi chết dí trong mảng bùn, tấm ảnh cưới vợ chồng tôi trôi dạt vào gốc cau, áo dài của vợ phơi chiều qua giờ dính bả sình, nặng như lời buộc tội.

Hàng xóm qua lại lục cục, người bê chăn, người kéo cửa, người vớt gà. Tiếng gọi nhau ráo hoảnh như tiếng bát đũa va vào nhau trong nhà bếp lạ. Vợ tôi – Lành – ngồi trên bậc thềm, bùn bết đến bắp chân, hai tay bế cái thau đựng giấy tờ nhũn ra như cháo: sổ hộ khẩu, giấy đăng ký kết hôn, giấy khai sinh của con – tờ nào cũng biến thành một loại dải bột trắng xóa.

“Thôi,” tôi nói, giọng khan, “để anh phơi, biết đâu còn cứu được chữ.”

Lành im. Cái im lặng không phải vì buồn bã nữa, mà vì kiệt. Lúc sáng nó còn cười với tôi khi vớt được cái ấm nhôm mẹ tôi để lại, nói “vẫn pha được trà” – đến chiều, khi thấy cái giường cưới gãy nát, nó không còn tiếng nào cất ra khỏi cổ họng.

Điện thoại của tôi rung. Tôi bật máy. Màn hình hiện “Bố – Hà Nội”.

Tôi chưa kịp “alo” thì đầu dây kia đã đổ xuống một tràng như mưa rào đập mái tôn:

“Anh là thằng đàn ông kiểu gì đấy? Vợ con người ta gửi cho anh, anh để nó sống qua cái cảnh này à? Lũ thì ở đâu chả có, sao nhà người ta biết phòng biết tránh, còn anh thì để mất trắng? Anh lo được cái gì cho con gái tôi chưa? Anh mấy năm nay làm cái gì ra hồn ngoài cái nghề bấp bênh ấy? Anh có biết con bé gầy rộc đi vì thiếu ngủ không? Cháu tôi đêm qua sốt mà anh có biết cách bấm huyệt cho nó hạ chưa?… Đàn ông là phải biết đỡ, đỡ lấy cái nhà, đỡ lấy người đàn bà của mình, biết không?”

Mỗi chữ “đỡ” của ông như một cái dầm gỗ gõ vào trán tôi. Tôi nắm chặt điện thoại. “Con…” Tôi định nói “con đã cố”. Cái “đã cố” mắc ở cổ họng như hột thính rơi vào ống khí. Tôi nhìn Lành đang quay mặt đi, tóc bết trên gáy. Tôi bỗng thấy mình nhỏ như cái ghế nhựa nằm lật úp dưới ao.

“Con xin lỗi bố,” tôi nói khẽ.

Bên kia im một nhịp. Rồi giọng ông, vẫn khàn, vẫn rắn: “Ngày mai tôi vào. Ở nhà. Đừng đi đâu.”

Cúp máy.

Tôi đứng như bị ai rút hết xương trong người. Lành nhìn tôi. Mắt nó đục như mặt nước sau khi trâu đi qua. Nó không hỏi “bố nói gì”, không than “sao bố nặng lời thế”, chỉ nói: “Anh đừng qua kè nữa. Ở nhà, trông con. Em sang nhà bà Hiển hỏi xin ấm nước nóng.”

Tôi gật. Từ sáng đến giờ, tôi gật quá nhiều. Gật trước lũ, gật trước hàng xóm, gật trước câu chửi của người đàn ông ngoài bảy mươi ở Hà Nội. Đầu tôi thành cái lò xo mỏi.


Trưa hôm sau, trời âm u như một tấm chăn ẩm nặng đè xuống đồng bãi. Xe khách đỗ ở đầu làng. Tôi thấy ông bước xuống, áo mưa bộ đội, mũ rộng vành cũ. Ông thấp hơn trong ký ức tôi – có lẽ vì mười năm nay tôi ít nhìn ông ngoài đời. Ông không giang tay, không ôm con gái, không vỗ vai con rể. Ông nhìn lướt một vòng: bờ rào đổ, tường loang vết nước, giường sa lầy, bàn thờ nghẹt bùn. Mắt ông dừng lại ở tấm ảnh bố mẹ tôi bị nước trôi dạt. Ông cúi xuống, nhặt ảnh, lau bùn bằng ống tay áo.

“Chào bố,” tôi nói, giọng không ra âm.

Ông “ừ”. Cái “ừ” của người Nghệ cũ – ông vốn người Nghệ An, ra Hà Nội đi bộ đội rồi ở lại – nghe như một hạt sạn khô.

Ông đi thẳng vào nhà, đặt cái túi du lịch xuống, rồi quay ra xe, khệ nệ ôm theo một chiếc… thùng xốp. Thùng loại người ta thường đựng cá tươi hoặc vaccine, bề mặt in chữ “FRAGILE”. Ông đặt cái thùng lên bàn gỗ mục, cởi đôi găng tay nylon vấy bùn, thở hắt.

“Lấy dao,” ông bảo.

Tôi chạy đi tìm. Trong nhà, mọi thứ lẫn thành một thứ đất bầy nhầy. Tôi vớ được con dao rỉ. Ông giật, xọc mạnh. Băng keo đứt, nắp bật. Hơi lạnh phả ra như trong kho đông. Bên trên là một túi đá gel, dưới gel là một bọc nylon bọc kỹ. Ông tháo bọc. Cẩn thận đến khô khan.

Trong thùng, hiện ra… bốn thứ.

Một phong bì dày cộp – loại phong bì ngân hàng, kẹp hai cuốn sổ tiết kiệm đỏ tươi. Một tập hồ sơ màu xanh có dây buộc – dán nhãn “Hợp đồng mua bán căn hộ – chung cư X, quận Hoàng Mai”. Một cuốn sổ học trò bọc nilon trong, đã cũ và thấm nước, bìa ghi bằng chữ mực tím: “Sổ nợ – Nhà Bắc”. Và một túi vải màu nâu, thêu chữ “Lành 1999”.

Tôi đứng chết lặng. Lành đưa tay, run, chạm vào túi vải. Nó mở ra. Bên trong là ốp tóc, đôi giày trẻ con đã cũ, mấy bức ảnh nhỏ bằng bàn tay: một con bé tóc hai chỏm cười khì với chiếc diều, nó và bố nó ngồi xe đạp, nó đứng trên sân trường tiểu học bê một bông sen giấy to hơn mặt. Những thứ “con gái” được gói ghém, bảo quản, qua nhiều mùa mưa lặn vào thành phố, nay nằm khô ráo trong chiếc thùng xốp lạnh.

Ông nói, giọng khản đặc: “Tiền tiết kiệm. Hợp đồng mua nhà đứng tên hai đứa. Sổ nợ – tôi đi in lại bản cũ từ cuốn sổ mẹ anh ghi hồi xưa, ghi những người anh mượn khi xây căn nhà này. Đêm qua tôi đi từng nhà trong xóm, trả hết – tiền tôi, không của anh. Tôi để lại chữ “Đã trả” từng dòng một. Túi vải… đồ của con gái tôi. Tôi giữ. Tôi không muốn lũ cướp nốt ký ức.”

Tôi như bị ai rút ra khỏi thân xác, rồi ném trả vào lại – mạnh. Tôi chao đảo ngồi xuống ghế. Lành che miệng. Nó ngồi bệt xuống nền nhà ẩm, ôm túi vải, người run.

Tôi cầm cuốn sổ nợ. Trang đầu là chữ của mẹ tôi, tròn như hạt mưa: “Bà Cẩm – 2 triệu – mua gạch. Ông Tráng – 1,5 triệu – mua xi măng. Cô Hiển – 500 nghìn – tiền công thợ. Bà Vân – 200 nghìn – mua chổi, xoong nồi.” Trang kế là chữ đỏ – “đã trả” – mực phớt. Tôi lật nhanh. Trang nào cũng có dấu “đã trả”. Nét chữ giống nhau: rắn, gọn. Nét chữ của người đàn ông trước mặt tôi.

“Bố… lấy tiền đâu…?” tôi nói, giọng nghẹn.

Ông không nhìn tôi. Ông nhìn cái thau giấy tờ nhũn nước. “Tôi bán nhà cũ,” ông nói. “Cái nhà một tầng ở Phùng Khoang. Nhà tôi ở từ hồi con bé Lành vào cấp hai. Tôi chuyển về ở cùng thằng em dưới Bách Khoa. Nhà ấy nhỏ. Nhưng tôi già rồi, một góc giường đủ.”

Không khí đóng băng ở đấy. Tiếng nước nhỏ giọt từ mái vỡ bỗng nghe rõ như kim rơi trên sàn. Ngoài cửa, ai đó gọi nhau “đánh được mấy con cá rô chưa”, tiếng cười the thé của đám trẻ con lội bì bõm. Trong nhà, một người đàn ông bảy mươi tuổi nói “tôi bán nhà” nhẹ như nói “tôi cởi áo”.

“Tại sao…?” tôi nói như hỏi một ngọn núi.

Ông nhìn thẳng vào mắt tôi, lần đầu từ lúc xuống xe. Ánh nhìn không phải là lưỡi dao như trong cuộc gọi tối qua. Nó là một cái gương. “Tối qua, tôi mắng để anh biết là mình đang đứng chỗ nào. Đàn ông phải chịu câu đó. Tôi nói ‘anh có biết đỡ không’ vì tôi sợ anh nghĩ lũ lấy hết, còn danh dự đàn ông thì thôi. Nhưng mắng xong, tôi treo máy, ngồi một mình trong nhà, nhớ đến cái ngày cách đây mấy chục năm: mưa bão đánh sập cái lán tôi với mẹ con Lành ở Thanh Trì. Tôi bồng nó lên bằng một tay, tay kia kéo mấy tấm ván, bùn ngập đến ống chân. Hàng xóm cho tôi một cái thùng xốp, bảo ‘đựng mấy thứ quan trọng, đồ ướt thì phơi, người sống thì tự khô’. Câu đó đi theo tôi đến giờ. Tôi mở tủ, ngó quanh. Tôi còn gì quan trọng nhất? nhà. Tôi gọi môi giới, ký ngay trong đêm. Tôi gọi ngân hàng rút sổ. Tôi gọi trưởng thôn của anh, nhờ ông ấy dẫn đường. Tôi đi từng nhà. Ai mở cửa, tôi nói ‘tôi trả nợ thay thằng Bắc’. Ai không mở, tôi nhét phong bì qua khe cửa, để lại tờ giấy, ghi số tôi. Tôi không muốn con gái tôi phải cúi đầu để nghe những câu ‘ngày xưa mày vay tôi một triệu không trả’ khi đi chợ. Nước đã rút, tiếng đồn phải rút.”

Tôi ôm đầu. Cái lạnh của đá gel trong thùng xốp chạy vào các đốt ngón tay tôi, rồi lan lên cổ như một thứ men.

“Nhà ở Hoàng Mai,” ông nói chậm rãi, “lầu ba, hai phòng ngủ, nhìn ra khoảng cây. Không to, nhưng khỏi ngập. Mai mốt hai đứa ra đấy. Vợ chồng mà cãi nhau, cứ mở cửa sổ ra hít gió, đừng chửi bới ở hành lang. Đồ đạc – tôi đã xin được một số từ nhà người quen. Hôm nay ở tạm nhà bác Hiển. Mai tôi mua vé cho hai đứa ra.”

“Con không… nhận được,” tôi bật ra, tiếng tôi nhỏ hơn cả tiếng móng ốc cào vào tường. “Bố ơi, con chưa làm được gì… Bố bán nhà… vì con…”

“Không,” ông cắt ngang, giọng cộc. “Tôi bán nhà vì con gái tôi. Và vì cháu tôi. Anh là người đàn ông, anh hiểu cảm giác bảo vệ người mình thương. Anh bảo vệ được cái gì thì bảo vệ. Tôi bảo vệ được cái gì thì bảo vệ.”

Lành chồm lên ôm lấy ông. Nó khóc – cái khóc dồn nén bốn ngày liền, giờ vỡ ra, ướt cả vạt áo bộ đội cũ. Ông vỗ lưng con, tay run, môi mím chặt.

Tôi đi vòng, quỳ xuống trước thùng xốp. Tôi mở cuốn hợp đồng. Tên tôi – Bắc. Tên Lành. Con dấu đỏ chói như trái ớt chín. Chìa khóa – mấy chiếc móc nhựa xanh đeo chữ “Căn 304”. Tôi chạm vào chìa, lạnh.

Đấy là lúc, lần đầu tiên trong đời, tôi khóc. Không phải cái khóc đấm ngực như mấy đứa con trai phạm lỗi hồi nhỏ, không phải cái khóc mặn như mồ hôi. Tôi khóc im lặng, nước mắt tự rơi, rơi xuống nắp thùng xốp, thành những giọt trong veo trên nền bùn. Tôi khóc vì bị mắng tối qua và được cứu sáng nay là cùng một bàn tay. Tôi khóc vì một người đàn ông bảy mươi nghĩ việc bán nhà của mình là việc nhẹ như cởi áo. Tôi khóc vì thấy mình bé bỏng trước chiếc hộp xốp mỏng mà chứa cả một căn nhà, một cái tên sạch nợ, một túi ký ức khô ráo.


Đêm đó, chúng tôi ngủ nhờ ở nhà bác Hiển. Mùi chiếu mới ngai ngái lẫn mùi bùn. Con ngủ ngoan – chắc mệt. Tôi nằm nhìn trần nhà tre, nghe tiếng ếch đâu đó khàn khàn. Ông nằm ở chiếc chõng tre cạnh cửa, thở đều. Tôi muốn nói “bố ơi con xin lỗi”, “bố ơi con cám ơn”, “bố ơi con sẽ đi làm hai việc”,… nhưng lời nằm trong lồng ngực như những con cá bị mắc lưới, chỉ vẫy, không bơi ra.

Sáng sớm, ông dậy trước. Ông mang thùng xốp ra hiên, bỏ đá gel sang cái thau nhôm, lau sạch lại từng món, cẩn thận xếp. Ông như một người đi bờ ruộng chọn hạt giống: sổ ở dưới cùng, hợp đồng ở giữa, sổ nợ kẹp trên, túi ký ức để trên cùng – lưng con gái ông được đặt ở nơi dễ rút ra nhất.

Tôi đỡ tay ông. Ông gạt ra: “Đàn ông mà lóng ngóng thế à.”

Tôi cười. Ông cũng cười – cái cười rất nhanh, như ánh nắng ló qua mây một chớp rồi tắt.

Trưa hôm sau, chúng tôi ra ga. Ông mua vé tàu. Không phải tàu nhanh. Ông bảo đi tàu chậm một lần, để biết mình đi từ đâu đến đâu. Tôi bế con, Lành kéo theo túi đồ. Ông ôm thùng xốp.

Trên tàu, ông ngồi cạnh cửa sổ. Cánh đồng nước chạy ngược ngoài kia, những mái nhà thấp như mái thuyền buộc sát bờ. Tôi nhìn tay ông ôm chiếc thùng, những vết chai cũ trên mu như những dấu bản đồ. Tôi hỏi: “Bố… sao lại đựng những thứ này trong thùng xốp? Sao không điều gì đẹp đẽ hơn, sang trọng hơn?”

Ông nghiêng đầu, ánh mắt thoáng mấy tia trêu: “Ngày xưa người ta dạy tôi: ‘đồ quan trọng phải biết bơi’. Thùng xốp biết bơi. Hòm gỗ thì chìm. Còn thứ sang trọng, nó chỉ sang khi không phải đi qua nước.”

Câu ấy làm tôi bật cười, tiếng cười đi kèm nước mắt. Ông đập vai tôi một cái: “Cười đi. Đã khóc rồi thì cười đi. Thằng đàn ông nào cũng phải biết cả hai thứ.”

Tàu rung. Ông nhắm mắt, tựa đầu vào kính. Tôi nhìn ra ngoài, thấy mấy đứa trẻ con đuổi theo tàu, vẫy vẫy. Một đứa giơ lên cái nắp xô nhựa như cái khiên. Tôi không biết sao nghĩ được điều này: mỗi người đàn ông đều có một cái nắp xô, một cái khiên – có người là bằng tiền, bằng nhà, bằng lời – có người chỉ bằng một cái thùng xốp.


Chúng tôi dọn vào nhà mới ở Hoàng Mai tuần sau đó. Ông đi lại như người vận hành một cái máy mới: kiểm tra cửa sổ, dặn chống thấm, bột trét chỗ nào, điền tên hai đứa lên hộp thư, đưa chìa khóa, ghi nhớ số điện nước. Buổi tối, ông lau cái bàn gỗ bé tôi mua lại trong nhóm chợ đồ cũ, đặt túi vải “Lành 1999” lên, nói: “Thứ này để ở phòng con. Để nó thấy mẹ nó từng bé xíu.”

Tôi đi nộp hồ sơ cho một công ty xây dựng – xin làm phụ trách đội an toàn lao động. Buổi tối, tôi nhận thêm việc lái xe nâng cho kho hàng gần nhà. Tôi nhắn tin cho những người bạn làm thầu: “Tôi rỗi từ 10h đêm đến 3h sáng.” Có người cười “mày hóa điên”, tôi bảo “ừ, điên cho tỉnh.”

Lành tìm được chỗ bán cơm trưa ở cổng trường đại học gần nhà, ngày nào cũng nấu thêm một suất cho ông. Ông ăn xong, hay đứng bên cửa sổ nhìn xuống sân chung cư. Trẻ con chơi đá bóng bằng quả cầu rơm. Ông bảo: “Không có ruộng, tụi nhỏ cũng biết đá.” Tôi hỏi: “Bố có thấy thiếu cái gì của Hà Nội cũ không?” Ông cười: “Tôi có đem theo rồi.” Ông chỉ vào túi vải, chỉ vào thùng xốp, chỉ vào hai đứa – “đây, Hà Nội của tôi”.

Một chiều, tôi về sớm. Ông đi đâu không biết. Ông về, tay cầm một cái… thùng xốp mới, bé hơn. Ông đặt lên bàn, bảo: “Mở ra.”

Trong thùng là ba chậu cây con: một chậu lộc vừng, một chậu trầu bà, một chậu sen đá tí hon. “Tôi xin của nhà vườn,” ông bảo, “đặt ở ban công. Nhà nào không có vườn thì làm vườn ở tầm tay.”

Lành “á” lên, bưng chậu trầu bà chạy ra ban công, lúi húi treo. Tôi cầm chậu lộc vừng, đặt trên bệ. Con tôi bò đến, tay chạm vào sen đá, cười.

“Bố này,” tôi nói, “đồ quan trọng phải biết bơi. Cây thì không biết bơi.”

Ông cốc đầu tôi khẽ: “Thì mình dạy nó biết bơi bằng cách đừng để nó rơi xuống nước.”

Câu nói tưởng đùa mà chạm vào đâu đó sâu hơn trong tôi. Tôi nghĩ đến cuộc gọi đêm lũ, đến thùng xốp, đến nước, đến cái cách một người già dạy một thằng đàn ông trẻ cách… đỡ.


Đến ngày giỗ đầu của mẹ tôi, chúng tôi về Thanh Hóa. Nhà sửa rồi, tường mới, nền mới, bàn thờ mới. Họ hàng ăn cơm, không ai nhắc “sổ nợ”. Mấy bà đi chợ nhìn Lành không chép miệng nữa, chỉ hỏi “bây giờ ở đâu, trên phố có chật không”. Bà Hiển kéo tay tôi, nói nhỏ: “Tối đấy, anh bố vợ anh gõ cửa nhà tôi, đưa cái phong bì, ghi ‘trả nợ bà Hiển’, tôi xấu hổ lắm, tôi bảo thôi coi như tôi cho, ông ấy mắng: ‘chị mà cho, mai chị lại kể với ai đó ‘đã cho’. Trả, để tôi với con rể tôi đi chợ ngẩng cao đầu’. Tôi ngẩn người. Hóa ra đàn ông già nói câu nào ra câu ấy.”

Tôi cười, cười kiêu hãnh hộ ông.

Chiều, ông đòi ra bờ sông Mã xem nước. Nước hiền, như chưa từng điên. Ông ngồi trên bờ cỏ, im một lúc rất lâu. Tôi ngồi cạnh. gió phất qua tai như tay ai đó.

“Bắc,” ông nói, “đàn ông cả đời chỉ học vài chữ thôi. Một chữ là ‘đỡ’. Một chữ là ‘đặt’ – đặt người mình thương lên chỗ cao ráo. Và một chữ nữa là ‘đừng’ – đừng cậy, đừng sĩ, đừng nghĩ mình làm được thì không ai được phép mắng mình. Hôm gọi điện, tôi mắng anh. Lúc gác máy, tôi tự mắng tôi: ‘đàn ông gì mà mắng trước, đỡ sau’.”

Tôi quay sang. Ông cười, đuôi mắt xếp lớp, “Nhưng cuối cùng thì mắng cũng làm anh đứng yên nghe tôi đỡ.”

Tôi bật cười, nước mắt cay xè – chả biết vì gió hay vì câu ấy.

“Bố,” tôi nói, “con cảm ơn bố vì chiếc thùng xốp.”

Ông nhún vai: “Thùng xốp là thứ rẻ nhất, dễ kiếm nhất. Nhưng nó chứa được những thứ đắt nhất. Nhớ mà kiếm đúng lúc.”

Tôi gật.

Chúng tôi ngồi đến khi nắng ngả vàng. Ông đứng dậy, phủi quần: “Về thôi. Mai tôi lại về Hà Nội. Cái giường chật chờ.”

“Tôi mua cái giường mới cho bố,” tôi nói.

“Đừng,” ông xua tay. “Giường chật giữ lưng thẳng.”

Tôi cười to, tiếng cười bay qua mặt nước. Một con chim bói cá lao xuống, mũi nó vạch nước thành một đường thẳng tắp. Tôi nghĩ: người đàn ông giỏi là người biết lao xuống nước mà vẫn giữ được tuyến thẳng trong lòng.


Cái kết bất ngờ? Có lẽ nó đến nửa năm sau, khi Ngày của Cha đến. Tôi đang làm ca đêm ở kho hàng. Điện thoại rung. Tin nhắn từ số “Bố – Hà Nội”: “Con trai, ban công có nắng không? Lộc vừng ra hoa chưa? Nếu ra, chụp ảnh gửi.”

Tôi bật cười. Tôi chụp vội bức ảnh chậu lộc vừng đung đưa dưới nắng sớm, gửi ông. Một lúc sau, ông nhắn lại: “Được. Tối mai tôi mang vào mấy cái… thùng xốp.”

Tôi hỏi: “Đựng gì?”

Ông gửi một bức ảnh: trong thùng là mấy gói hạt giống, một chai rượu ngâm gừng, mấy cuốn sách bìa sờn, và một tờ giấy trắng kẹp dưới. Ông viết: “Đựng thứ này: tiếng cười.”

Tôi đứng giữa kho lạnh mười hai độ C, hơi lạnh phả vào mặt, mà thấy lòng ấm như được ấp tay vào bếp. Tôi nhắn lại: “Bố, tiếng cười biết bơi không?”

Bên kia hiện nhanh: “Bơi giỏi nhất.”

Tôi bật cười thành tiếng. Đồng nghiệp quay lại nhìn, tôi nói: “Xin lỗi, thùng xốp nhà tôi… vừa đầy.”

Related Posts

Our Privacy policy

https://cantho24.com - © 2025 News