×
×

Trung thu về quê vợ ở Nam Định chơi, bố mẹ vợ tiếp đãi Đức bằng đúng 1 con gà luộc, anh đanh mặt lại rồi giận đùng đùng bỏ đi

Trưa Trung thu, nắng đứng bóng như một con mắt không chớp. Đức ngồi bên bộ bàn gỗ mít, trước mặt là một con gà luộc nằm yên, da vàng ươm, lá chanh tỉa sợi rải như mưa lất phất. Trên bàn còn có bát muối tiêu chanh, đĩa rau thơm nhỏ, ấm trà xanh đặt trên chiếc đôn men nâu. Hết.

Không có đĩa xào. Không có bát canh. Không có bánh chưng rán, không có nộm, càng không có mâm cỗ bảy món như mẹ anh hay bày ngày rằm tháng Tám ở Hà Nội.

Bố vợ anh – ông Phúc – ho nhẹ, tay rót trà. Mẹ vợ – bà Lự – cẩn thận đẩy chén về phía anh, cười gượng: “Con ăn tạm, gà trống thiến, mẹ cúng xong mới chặt.” Câu “ăn tạm” rơi xuống mặt bàn như một cái kim. Hân – vợ anh – nhìn sang, mím môi, ánh mắt vừa năn nỉ vừa cảnh giác: “Anh ăn đi, rồi chiều mình ra bờ sông xem rước đèn.”

Đức nghe tiếng muỗi vo ve ngoài hiên mà lòng dậy tiếng một cái gì khác: sĩ diện. Anh vốn không phải người hay cằn nhằn chuyện ăn uống, nhưng vừa cưới được ba tháng, lần đầu về Nam Định đúng Trung thu, chẳng nhẽ nhà vợ đãi… đúng một con gà luộc?

“Chỉ gà luộc thôi ạ?” Anh buột miệng, cố giữ giọng nhẹ mà không che nổi gai. “Ở quê mình Trung thu… không làm cỗ to ạ?”

Bà Lự thoáng đỏ mặt. Ông Phúc nhìn ra ngoài sân, tiếng rao “bánh gai Bà Thi đây” từ đầu ngõ lọt vào, bập bùng như người gõ cửa rồi đi ngay. Hân đưa đũa gắp cho anh cái đùi gà: “Ở đây cúng tổ chỉ gà với trà. Tối mới ăn. Mẹ tính tối rước đèn về là có xôi, có canh măng khô… Nhưng gà này… mẹ cúng cho tổ tiên với… với…”

Với điều gì? Câu nói đứt ở đó. Đức nhìn cái đùi gà, tự dưng thấy nó như cái móc câu. Trong đầu anh rộ lên những câu chuyện lờ mờ nghe đâu đó về nhà vợ chẳng dư dả gì, về cái xe đạp cũ của bố vợ, về tấm áo nâu bạc màu của mẹ vợ. Bàn tay Đức cứng lại. “Thôi, con không đói.” Anh đẩy ghế đứng dậy, ghé lấy chìa khóa, tiếng chìa va vào nhau chát chúa.

“Anh…” Hân gọi, giọng dập dờn như mép nước. Bà Lự giơ tay với theo, rồi thôi, tay rơi xuống gối, chậm như cánh lá già.

Đức đi qua sân, đi qua cái chum nước rêu bám, qua giàn bầu có hai quả… gầy. Con chó mốc dưới gầm giường ngóc đầu lên nhìn anh bằng đôi mắt tưởng như ai đó đã bẻ cong ánh sáng, rồi lại úp mặt xuống chân. Nắng quật vào gáy nóng như than.

Anh phóng xe máy ra khỏi ngõ, rẽ qua con đường làng dẫn ra sông Đào. Đầu cầu, gió thốc mùi nước, mùi rêu, mùi bánh nướng bán dạo, mùi nhang trầm ở đền Trần từ xa. Anh dựng xe, ngồi xuống bậc bê tông, mở điện thoại. Một tin nhắn của Hân: “Anh đừng giận. Em xin lỗi.” Rồi một tin nhắn của mẹ anh ở Hà Nội: “Con ăn Trung thu ở nhà vợ cho vui nhé, đừng nề hà.” Đức bật cười khan, như người vừa cắn phải hạt vừng cháy.

Ở bãi cỏ bên tay phải, mấy đứa trẻ đang tập múa lân. Cái đầu lân đỏ chói nghiêng nghiêng, hai con mắt tròn rung lên mỗi khi cậu bé đội đầu nhún người. Một người đàn ông gầy, đội mũ cối, thổi kèn inh ỏi. Đức chợt thấy quen: hình như ông Phúc. Không phải. Người ta giống nhau về gầy, về dáng, còn ánh mắt thì không. Đức nheo mắt, lại thôi. Đằng xa, tiếng một ông già nói với một bà: “Năm nay xã khó, quỹ ít, các nhà góp mỗi nhà một món. Nhà ông Phúc góp con gà thiến, nhà bà Hường góp một chĩnh gạo nếp. Thế là đủ.”

Con gà thiến? Con gà ban nãy? Đức phẩy tay xua câu nói như xua muỗi. Điện thoại rung. Hân: “Anh ở đâu?” Anh gõ: “Cầu sông Đào.” Hân gõ lại: “Nhà mình… chiều còn việc. Anh đừng đi xa.”

Việc gì? Anh không trả lời. Anh đi bộ dọc mép sông, ngang qua một cửa hàng vật tư. Trước cửa, một chiếc xe lam cũ đỗ chờ bốc hàng: bóng đèn, dây điện, thùng loa, lồng đèn ngôi sao bằng tre giấy bóng kiếng xếp chồng. Một bà già đội nón mê ngồi buộc dây, miệng cười móm mém: “Đêm nay rước đèn to.” Đức đứng xem, thả lỏng lòng. Anh nhớ hồi bé, bố anh đốt đèn cù, đi một vòng sân tập thể đã mừng; bây giờ bọn trẻ có cả lân, cả đèn sao, cả nhạc.

Anh quay về ngõ. Đến đầu ngõ thì dừng lại: trong sân nhà vợ, ông Phúc đang buộc một cái thùng xốp to lên xe đạp bằng dây thừng. Mồ hôi chảy sáng bóng cổ. Bà Lự bưng từ bếp ra một nồi to, gõ “cạch” vào miệng thùng xốp. Hân đứng cạnh, tay cầm cuốn sổ mỏng ghi ghi chép chép.

“Thêm hai nhà nữa mẹ nhé: nhà chị Tấm sinh bé sớm tháng đang ở trạm xá, nhà anh Tý vừa mổ ruột thừa, chưa đi làm lại.” Hân đọc.

“Nhà bà Cả cho xin cái đèn cá chép cho thằng Bột,” ông Phúc thêm, buộc chặt nút dây. “Nó mê cá lắm.”

Cách họ nói, như không hề có khách trong nhà, như không hề có một người con rể vừa đùng đùng bỏ đi. Đức lùi lại, nấp sau cây khế. Anh nhìn bố vợ đèo cái thùng xốp, nhìn mẹ vợ xách theo cái đèn pin cũ, nhìn Hân khoác túi, cả ba biến mất ở ngã rẽ.

Cái hộp gỗ mít trong phòng khách còn mở. Đức đi vào, nhìn con gà luộc vẫn đó, bát muối tiêu chanh nguội đi. Trên đĩa có một bông cúc nhỏ bằng giấy đỏ, dưới con gà lộ một mẩu giấy trắng: “Cúng tổ – mâm số 3 – gửi quỹ rước trăng.” Chữ của ai đó tròn trịa, chắc là của Hân.

Đức thấy lồng ngực mình thắt lại nhẹ. Anh kéo ghế ngồi, ngửi mùi gà luộc bốc lên nhè nhẹ, ngửi mùi lá chanh đã nhạt, mùi trà xanh nguội. Anh nghĩ mình thật buồn cười: đi về vùng quê trong trí tưởng tượng, chờ một mâm cỗ “đúng bài” để khoe với bạn, rồi giận vì thiếu “đúng bài”. Anh bật dậy như bị ai ấn một cái nút.

Điện thoại lại rung. Hân gửi hình: bức ảnh chụp vội một sân nhà nhỏ, bộ bàn nhựa, bát cháo trắng, một bé trai tóc cháy nắng cười khoe mấy chiếc răng cửa sún. Dưới là dòng chữ: “Nhà anh Tý. Mẹ để cháo đây nhé.” Cái nồi trong ảnh chính là cái nồi Hân mang đi. Lại một ảnh nữa: một vòng tay gầy của một cụ già bế đèn ông sao, cười mà mắt rưng rưng. “Bà Cả.”

Đức quay người chạy ra, phóng xe đuổi theo hướng vừa rồi. Con đường đất làng mấp mô, bụi bay mờ kính. Anh hỏi một bà bán chè: “Cho hỏi rước đèn xã… đi đâu ạ?” Bà chỉ về phía đình: “Đêm. Nhưng bây giờ nhà nào khó là Hội đi từng nhà.”

Hội. Hội nào? Anh quên hỏi. Anh chạy tiếp, qua một hàng dừa, tới một trạm xá nhỏ quét vôi, bảng hiệu bạc màu. Trước cửa, chiếc xe đạp của ông Phúc dựng chênh vênh. Bên trong, cô y tá đang cười: “Ông bà đến đúng lúc quá, bé mới truyền xong.” Hân cúi xuống xoa đầu một đứa bé nằm trên giường, tay kia đặt túi đèn ông sao bên cạnh. Ông Phúc mở thùng xốp lấy ra mấy túi xôi nếp, mấy quả trứng muối, mấy hộp sữa.

Đức đứng nép ngoài cửa, vô cớ thấy muốn tháo chạy. Không vì xấu hổ – à, có xấu hổ – mà vì cảm giác bị ai đó đặt trước gương. Anh quay đi, nhưng vừa quay thì gặp đúng… bà tổ trưởng thôn, người hay nói oang oang ở đầu ngõ. “Ơ kìa, con rể!” Bà kêu, rồi gọi vào trong. Hân ngẩng lên, ánh mắt va vào anh, rưng rưng rồi nhanh chóng khô lại: “À… anh.”

Bà tổ trưởng cười: “May quá, có con rể. Lát nữa khiêng thùng loa giúp các bà nhé!”

Đức gãi đầu. “Vâng.”

Chiều sụp xuống chậm rãi. Đình làng rực đèn. Trẻ con cầm đèn ông sao chạy như ong vỡ tổ. Mấy ông người lớn cầm đầu lân, gõ trống thùng thùng. Đức đứng bên cánh gà, cõng chiếc loa cũ như cõng chiếc thùng thư bưu điện. Ông Phúc đứng cạnh, rót cho Đức một chén trà, nói như nói chuyện trời: “Để tối về, ta luộc lại con gà. Lúc cúng xong, ăn mới là ăn. Trưa mẹ mày luộc cho tổ trước.”

“Vâng.” Đức đáp. Chữ “vâng” đứng gọn trên lưỡi như một đứa trẻ đã ngồi yên một đoạn đường dài. Anh nhìn Hân đang phát bánh nướng cho lũ trẻ, suy nghĩ bật qua đầu: “Mình đã đi quá nhanh.”

Đến tiết mục trao đèn cho trẻ đặc biệt khó khăn, bà tổ trưởng gọi tên. Đức thấy những đứa trẻ ôm đèn như ôm mặt trăng. Một bé gái tóc hớt cao đặt cả hai tay lên đèn như sợ đèn trôi. Một bé trai gầy như cái bóng cúi khoanh tay: “Cháu cảm ơn các cô”.

Khi đoàn rước đèn tỏa ra khắp xóm, Đức đứng lại chỗ cũ, tự hỏi “mâm cỗ lớn” của anh là cái gì. Một người đàn ông lạ đến gần, nói nhỏ: “Cậu là rể bà Lự à? Nhà các cụ khó, mà cụ ấy làm việc Hội chăm lắm. Gà thiến là gà duy nhất nhà còn, để cúng và góp. Cậu đừng giận.”

Đức sững. “Sao bác biết…?”

“Ở làng, ai chẳng biết.” Ông cười, răng vàng. “Tôi bên hội hưu trí. Nhà cụ Phúc năm ngoái còn bán con lợn nuôi hai năm để dồn cho lũ trẻ bệnh viện tỉnh đấy. Mà thôi, chuyện thiện người ta không thích kể. Tôi nói để cậu… bớt lăn tăn.”

Đức cúi đầu, thấy bóng mình dài trên nền gạch. Anh bỗng nhớ một chuyện ngu ngốc: buổi trưa ở Hà Nội hôm anh chuẩn bị về quê vợ, bạn anh đùa “về Nam Định là ăn no phở bò, bánh gai bét nhè nhé”, anh cười “để khoe ảnh”. Bạn anh đâu biết có những thứ không chụp được.

Đêm rằm trôi đi như một cuộc rước dài, đến lúc trăng lên chính ngọ, tròn mà mỏng như đồng bạc, lũ trẻ về, người lớn gom bàn ghế. Đức đỡ thùng loa vào kho, quay lại thấy bà Lự ngồi ở bậc thềm đình, vuốt tóc một bé gái, cười mỏi. Anh đi đến. “Mẹ…” Anh gọi. Bà ngẩng, giây đầu hồ nghi như người vớt cá khỏi giỏ, giây sau thì thở ra: “Ừ, về ăn gà.”

Bữa tối, ngôi nhà nhỏ lại mở đèn, mùi lá chanh lại đầy. Bà Lự xếp xôi vào bát, chan mỡ hành, rắc muối vừng. Ông Phúc chặt gà, kê thớt kỹ, dao giòn. Hân bưng canh măng khô hầm xương từ chiều (hóa ra bà đã hầm từ trưa, để tối ăn cho ấm bụng), mùi thơm dày dặn. Đức nhìn mâm cơm, nhớ cái từ buổi trưa “ăn tạm”, thấy buổi tối này giống “ăn thật”.

Đang ăn, bà Lự bỗng lục túi áo, rút ra một cái phong bì màu nâu. “Cái này… là của mẹ con viết,” bà nói, đẩy về phía Đức. “Bảo nếu thằng rể ăn gà mà cau mày, thì đưa nó cái này.” Bà cười, nụ cười lúm lúm như vệt mực loang trên giấy cũ. Đức mở phong bì: một tờ giấy học trò, chữ nghiêng nghiêng: “Rể ạ, nhà mẹ nghèo, nhưng không nghèo đến mức coi thường rể. Gà là cho tổ, mỡ gà tiết canh là cho trẻ mồ côi, còn phần con là… phần con. Con cứ ăn ít, rồi tối ăn nhiều. Đừng bỏ đi giữa bữa, kẻo tổ giận.”

Đức bật cười. “Con… tổ giận thật.” Hân lườm yêu: “Em bảo rồi.”

Bữa cơm tối ấy, Đức ăn như người lỡ chuyến xe mà được đón đúng trạm. Anh kể chuyện ở cầu sông Đào, kể chuyện thùng loa, cười chuyện ông răng vàng. Cả nhà cười. Con chó mốc chui ra khỏi gầm giường, lân la dưới chân, thấy xương thì thở dài như ông già được phát sữa.

Tối muộn, khi Đức ra sân, ngước lên, trăng mỏng như mâm thiếc. Hân tới đứng cạnh, tựa vai: “Mai mình đi chợ ạ?” Đức ừ. “Đi chợ đồ… nhiều.” Hân nghiêng đầu: “Nhiều là bao nhiêu?” Đức không đáp, trong đầu đã lướt một danh sách dằng dặc.

Sáng hôm sau, khi gà còn gáy thưa, Đức đã dậy. Anh gọi điện cho thằng bạn thân ở Nam Định thành phố, mượn xe bán tải. “Mày chở tao qua mấy chỗ này,” anh nói, giọng vừa khẩn vừa vui. Bạn anh cười: “Chú rể chơi lớn thế.”

Bảy giờ, họ có mặt chợ đầu mối. Đức mua gạo – một chục bao loại ngon; mua dầu ăn – mấy can; nước mắm ngon – mấy thùng; mì tôm – mười thùng; bột canh; mắm tép; mấy ký thịt kho tàu đóng hộp để nhà nào không có bếp vẫn ăn được; mấy thùng sữa; rồi đi qua chỗ đồ tạp hóa, anh chỉ vào đèn ông sao còn sót: “Lấy hết.” Bên cạnh, anh quơ thêm phích nước, nồi cơm điện loại tốt, chăn bông mỏng. Bạn anh ngạc nhiên: “Về nuôi cả xóm à?”

“Có xóm này cần,” Đức đáp, không giải thích.

Mười giờ, xe bán tải đầy ứ. Đức còn ghé qua một cửa hàng đồ học: vở, bút, thước, hộp màu sáp. “Trung thu đi với tựu trường,” anh nói, như tự nhủ.

Trưa, chiếc xe len qua đường làng, dừng trước ngõ. Bà tổ trưởng đã đứng chờ – không hiểu ai báo. “Ơ hay!” bà reo, vỗ tay: “Hôm qua nói khiêng loa, nay khiêng… cả chợ.” Cả xóm túa ra. Ông Phúc từ trong nhà chạy ra, mắt mở to, hai bàn tay mở ra rồi nắm lại như người không biết phải làm gì. Bà Lự tế nhị: “Con… à… nhiều thế?” Hân đưa tay chạm tay chồng, bóp khẽ: “Em biết mà.”

Đức thở phào. “Của con… và bạn con,” anh nói, rồi hạ giọng, đủ cho ba người nghe. “Con nghĩ… ở đây còn nhiều nhà thiếu. Con muốn… bố mẹ giữ phần đủ dùng, phần còn lại… bố mẹ… nhờ Hội phân.”

Bà Lự nhìn sang ông Phúc. Ông quay vào lấy quyển sổ cũ – bìa đã sờn – lật ra, cả nhà và cả xóm thấy một danh sách đã viết sẵn: tên các hộ khó, cột “gạo”, cột “dầu”, cột “đèn”, cột “sữa”. Số lượng ghi bằng bút bi xanh. Đức ngẩn người: “Sao y như… con định.”

Ông Phúc cười, răng trắng: “Tối qua bố định đi xin xã thêm, nhưng ngại. Bố viết cho đỡ quên. Ai ngờ…”

Ai ngờ, con rể chở cả chợ về. Bà tổ trưởng vỗ tay “đốp” một cái: “Chia thôi!” Cả xóm hoạt động như đội quân nhỏ: người bốc gạo, người đếm mì, người đánh dấu thùng sữa, trẻ con sắp đèn thành chồng. Không khí rộn ràng như ngày hội. Đức thấy ba anh em nhà Tý ôm đèn cười, thấy bà Cả ôm can dầu run run, thấy một cụ già đứng xa xa nhìn, không dám lại. Anh bưng đến cho cụ một túi: “Cụ ơi, cụ nhận giúp cháu.”

Hà hơi vào mắt, Đức bỗng nhận ra mình đang… nhẹ. Nhẹ hơn buổi trưa hôm qua nhiều.

Nhưng cái bất ngờ lớn nhất đến vào chiều, khi mọi thứ đã gần chia xong. Một người đàn ông trung niên từ thị trấn lóc cóc xe máy vào, buộc phía sau là một túi vải cũ. Ông hỏi đúng tên Đức, đưa ra một tờ giấy viết tay nhăn nheo: “Cửa hàng thú cảnh.” Đức nhíu mày: “Dạ?”

Ông cười: “Hôm kia, có một người đàn ông vào đặt mua mười con chuột bạch để… ‘bắt hộ trong kho dọa thằng con trai tối ngày nhậu’. Ghi chú ‘đừng thả vào phòng vợ, vợ sợ’. Hôm sau, ông ấy quay lại hủy. Rồi có một bà đến lấy bằng ấy con, cùng địa chỉ, khác tên người nhận.” Ông xoa gáy. “Tôi giữ lại cái đơn, sợ có chuyện nên hỏi người quen… xin được số con. Bà tổ trưởng bảo tôi mang xuống.”

Cả sân im ắng. Ông Phúc giật mình, mặt nóng rồi lạnh, thì thào: “Cái lão Tư bán thú… lắm chuyện thật.” Ông nhìn Đức, như có trăm con chữ chạy trong mắt. Rồi ông hạ giọng: “Bố định dọa… thằng Khánh. Nó mê nhậu với bạn, về muộn, mẹ mày lo phát sốt. Bố định bắt nó sợ cho chừa. Hôm sau nghĩ… dọa không bằng dạy. Bố hủy. Ai ngờ…”

Bà Lự nhắm mắt, thở dài, giơ tay. “Tôi… Tôi sai.” Bà quay sang cả xóm, nói to mà dứt: “Tôi xin lỗi.” Nhanh như một vết mực loang, âm “ôi” chao qua hàng hiên. Bà tổ trưởng búng tay: “Vậy là hay. Người làm sai mà biết nói ‘xin lỗi’ là người còn… dùng được.” Cả xóm cười rì rầm.

Đức nhìn tờ đơn chuột bạch, nhìn nét chữ nguệch ngoạc “đừng thả vào phòng vợ”. Một tiếng gì đó gõ nhẹ ở phía trong ngực. Anh quay sang bà Lự, nói nhỏ: “Mẹ… con cũng xin lỗi. Con bỏ về giữa bữa, tổ… giận con.”

Bà Lự bật cười, nước mắt ứa ra: “Tổ tha rồi. Hôm qua tối tổ nhận xôi với canh măng, con ăn sạch phần con, tổ bảo ‘thằng này biết đường về’.”

Hân đứng giữa sân, nhìn ba người họ – mẹ, bố, chồng – như nhìn ba cây cột chống mái nhà. Cô ôm lấy Đức ngang hông, chặt mà yên.

Đêm đó, khi mọi thứ đã yên, Đức ngồi một mình ở hiên, ngón tay gõ nhịp lên mép bàn, bỗng sờ thấy một vật nhỏ. Anh bật đèn: một con gà gỗ bé xíu, chạm trổ thô mộc, buộc bằng sợi chỉ đỏ. Anh ngạc nhiên. Ông Phúc từ trong nhà bước ra, ngồi xuống, cười bí ẩn: “Quà của bố.”

“Gà… gì ạ?”

“Gà giữ vía.” Ông nghiêm giọng như người kể tích. “Ở đây, rằm tháng Tám cúng một con gà trống thiến, để ‘giữ vía’ cho nhà – giữ cái nết, giữ cái lộc. Cái gà gỗ này là bố tự tay đục từ hồi Hân còn nhỏ, mỗi năm treo một lần. Năm nay, bố định treo trước cửa để… giữ vía cho con rể. Trưa con bỏ đi, bố đem cất. Chiều con khiêng loa, tối con ăn hết bát canh măng, bố lại treo lên. Rồi thấy con chở cả chợ về, bố tháo xuống, đặt vào tay con. Từ nay… giữ vía nhà con.”

Đức cầm con gà gỗ, thấy nó nặng như một chữ hiếm: chữ “Lời”. Tiếng côn trùng ngoài ruộng rì rào. Ở phòng trong, Hân trở mình, ho khẽ. Bà Lự đắp lại chăn, thở đều. Ông Phúc nhìn ra vườn, nói như tự nhủ: “Một con gà luộc, nếu ăn lúc trưa, thì ‘ăn tạm’. Ăn lúc tối, thì ‘ăn thật’. Con ăn được bữa tối rồi.”

Đức cười, nụ cười rơi nhẹ như đom đóm. Anh bỗng thấy một ngày – một đời – có thể gọn trong hai chữ ấy: “tạm” và “thật”. Ban trưa, anh đã sống “tạm” như một tờ ảnh đưa lên mạng; ban đêm, anh được mời vào “thật” như một bát canh măng đặt ngay trước mặt.

Trung thu năm đó, Đức mang về Hà Nội một con gà gỗ nhỏ buộc dây đỏ, một danh sách các nhà khó trong xóm, một lời xin lỗi và một lời hứa. Những thứ ấy không chụp được. Nhưng anh biết, mỗi khi đặt tay vào túi, sờ thấy gà gỗ, anh sẽ nhớ cái bữa tối có canh măng khô, có gà trống thiến chặt khéo, có bát xôi muối vừng thơm lừng, và có tiếng cười của mẹ vợ khi nói “Tổ tha rồi”.

Và trong đầu, Đức âm thầm lập một thói quen mới: cứ mỗi rằm tháng Tám, anh lại “mua một xe đồ” – nhưng không còn để “trả” một bữa trưa thiếu món – mà để góp vào một mâm cỗ dài hơn bờ ao: mâm cỗ của những nhà chưa đủ sáng, những đứa trẻ chưa đủ đèn. Anh viết ở đầu danh sách năm sau: “Mục 1: gạo. Mục 2: dầu. Mục 3: đèn. Mục 4: những câu ‘xin lỗi’ và ‘cảm ơn’ không để đến tối mới nói.”

Ở Nam Định, trăng vẫn tròn như đĩa bạc. Ở Hà Nội, trăng hơi mờ vì bụi. Nhưng con gà gỗ buộc chỉ đỏ, bất cứ nơi nào treo, cũng rung khẽ khi gió đi qua – rung đúng nhịp một câu chuyện đã học xong chỗ rẽ: đừng bỏ bữa tối chỉ vì bữa trưa… “ăn tạm”.

Related Posts

Our Privacy policy

https://cantho24.com - © 2025 News