Bác giúp việc nhà tôi tên Hòa, hơn năm mươi tuổi, gầy gò nhưng nhanh nhẹn. Bác nhận lương 5 triệu mỗi tháng, phụ dọn dẹp, nấu ăn, trông nom căn nhà khi vợ chồng tôi bận rộn. Thật ra, tôi và chồng đều quý bác. Bác ít nói, làm đâu ra đấy, chỉ thỉnh thoảng kể vài chuyện quê nghèo, nghe mà thương.
Một buổi sáng tháng Bảy, khi tôi đang chuẩn bị đi làm, bác Hòa ngập ngừng:
– Cô chú ơi, mai giỗ ông nhà tôi. Tôi xin phép về quê một hôm.
Tôi gật đầu ngay:
– Dĩ nhiên rồi, bác cứ về đi. Có cần tôi cho bác ứng thêm ít tiền không?
Bác lắc đầu, nhưng mắt ánh lên sự bồn chồn lạ. Bác do dự một lúc rồi nói, giọng như cầu xin:
– Nhưng… tôi muốn nhờ cô chú một việc. Chỉ cần ngày mai thôi.
Tôi ngạc nhiên:
– Việc gì ạ?
Bác nhìn quanh nhà, rồi ghé sát, thì thầm:
– Cô chú… cho tôi làm lễ giỗ ông ấy ngay trong căn nhà này, trước khi tôi về quê.
Tôi sững người. Giỗ chồng… ở nhà chủ? Chồng tôi cũng đứng sững. Bác nói tiếp, giọng khẩn thiết:
– Chỉ cần bày mâm cơm nhỏ dưới bếp. Tôi thắp hương cho ông ấy, coi như báo cáo là tôi vẫn còn sống, vẫn còn nhớ. Quê xa quá, tôi không kịp về sớm để kịp giờ cúng. Làm thế cũng coi như trọn nghĩa.
Tôi và chồng nhìn nhau. Lạ lùng, nhưng nghĩ bác ở với mình lâu, tình cảm thật thà, cũng không muốn bác tủi. Tôi miễn cưỡng đồng ý, dặn:
– Bác làm đơn giản thôi, xong thì về quê.
Bác mừng rỡ, cúi đầu cảm ơn rối rít.
Chiều hôm đó, tôi về sớm hơn thường lệ. Vừa mở cửa, mùi nhang xộc ra, dày đặc, ám khắp phòng khách. Xuống bếp, tôi chết lặng: trên nền gạch, bác Hòa đã trải chiếu, đặt mâm cơm, bày đủ gà luộc, rượu trắng, hoa quả, và… một tấm ảnh đàn ông đã ngả màu. Bốn cây nến cao chót vót cắm ở bốn góc chiếu, khói nghi ngút.
Bác mặc áo nâu sồng, quỳ lạy thành kính. Thấy chúng tôi, bác ngước lên, mắt đỏ hoe:
– Cảm ơn cô chú. Tối nay ông ấy chắc vui lắm.
Tôi chưa kịp phản ứng thì điện thoại chồng rung. Anh nghe máy, mặt biến sắc:
– Ai…? Anh nhầm máy rồi. Nhà này… không, không phải…
Cúp máy, chồng run giọng bảo tôi:
– Người ta vừa nói… nhà mình từng là nhà bác Hòa trước kia.
Tôi chết điếng:
– Gì cơ?
Chồng nói không rõ ràng, chỉ biết người gọi bảo là con trai bác Hòa. Họ bảo “chú thắp hương đúng nơi cha cháu mất rồi”.
Tôi nhìn tấm ảnh, lạnh sống lưng. Người đàn ông trong ảnh, ánh mắt u ám như xuyên qua.
Chúng tôi định hỏi lại thì nửa tiếng sau, tiếng gõ cửa ầm ầm. Tôi run rẩy ra mở. Ngoài cổng là cả chục người, mặt mày căng thẳng, trong tay lăm lăm gậy gộc, có người xách theo hương hoa. Người đàn ông đứng đầu quát:
– Đây là nhà cha tôi! Ai cho các người ở?
Tôi tái mặt:
– Nhà này… vợ chồng tôi mua cách đây hai năm, có sổ đỏ hẳn hoi…
Người kia đập mạnh xuống đất:
– Mua bán gì! Đây là đất hương hỏa. Các người chiếm ở, lại còn cho mẹ tôi cúng giỗ ở đây, gọi hồn cha tôi về! Các người phải dọn đi.
Họ hô nhau, đòi xông vào. Tôi đóng sập cửa, tim đập thình thịch. Trong bếp, bác Hòa khóc òa:
– Tôi xin lỗi… Tôi chỉ muốn thắp cho ông ấy nén nhang. Tôi đâu ngờ…
Tiếng đập cửa ngày một dữ. Tôi quay sang chồng, mặt trắng bệch:
– Chúng ta phải làm sao?
Đêm ấy, chúng tôi không ngủ. Nhóm người kia ngồi lỳ ngoài ngõ, đốt hương khói nghi ngút, vừa khóc vừa chửi, vừa gào đòi chúng tôi ra khỏi nhà.
Sáng hôm sau, công an phường tới. Sau khi nghe hai bên trình bày, họ mới cho biết: ngôi nhà này quả thực từng thuộc về gia đình bác Hòa. Nhưng chồng bác chết bất đắc kỳ tử ngay trong căn bếp này, khi đang sửa điện. Sau đó, các con bác bán rẻ đất đi để trả nợ. Bác Hòa lang bạt, mãi mới xin làm giúp việc.
Chúng tôi ngồi chết lặng. Thì ra, căn bếp tôi nấu ăn mỗi ngày chính là nơi ông ấy trút hơi thở cuối cùng. Không lạ khi bác Hòa chọn nó làm nơi thắp hương.
Nhóm con cái bác, vì cắn rứt và nghèo khổ, dồn giận dữ lên chúng tôi. Họ nói bị cha trách mắng trong mộng, rằng “đã bán nhà còn để người lạ ở”. Vì vậy họ tụ tập, đòi chúng tôi dọn đi.
Công an khuyên giải mãi, cuối cùng mới giải tán được. Nhưng không khí trong nhà sau hôm đó nặng nề như có ai đứng sau lưng.
Bác Hòa quỳ xuống trước vợ chồng tôi, khóc:
– Tôi xin lỗi. Tôi không ngờ con tôi lại làm thế. Nếu cô chú thấy ám ảnh… cứ cho tôi nghỉ.
Chồng tôi đỡ bác dậy, giọng nghẹn:
– Bác cứ về quê đi. Còn chuyện sau này… để chúng tôi tính.
Tối hôm ấy, vợ chồng tôi ngồi im trong phòng khách. Tấm ảnh ông chồng bác vẫn còn đặt trên bàn. Tôi rùng mình, muốn đem đi thì chồng giữ lại:
– Để đó. Ít ra còn cho ông ấy chỗ mà về.
Tôi nhìn căn bếp sâu hút, nơi từng rộn rã tiếng cười, nay chỉ còn vang vọng những tiếng gõ cửa, tiếng khóc đòi đuổi đi. Lần đầu tiên trong đời, tôi thấy căn nhà của mình… không hẳn thuộc về mình.
Và trong đêm, khi gió lùa qua khe cửa, tôi nghe mơ hồ tiếng thì thầm đâu đó:
– Đây là nhà ta…
Kết
Từ đó, vợ chồng tôi không dám coi ngôi nhà là “của riêng”. Mỗi dịp rằm, chúng tôi đều thắp hương thêm cho một linh hồn xa lạ – người đàn ông trong bức ảnh cũ. Bác Hòa không còn quay lại làm giúp việc. Nhưng thỉnh thoảng, tôi vẫn nhận được cuộc gọi nửa đêm, giọng run rẩy của bác:
– Ông ấy… lại hiện về, hỏi có ai còn giữ bếp không.
Nghe xong, tôi chỉ biết siết chặt tay chồng, tim như muốn ngừng đập.
Bởi trong tận óc, tôi đã hiểu: chúng tôi chỉ là người đi nhờ trong căn nhà này. Và có lẽ… một ngày nào đó, lời đòi “đuổi đi” sẽ lại vang lên, không phải từ con cháu bác Hòa, mà từ chính chủ nhân vô hình của ngôi nhà.