×
×

Mẹ cười: “Ôi dào, phở với phèo! Ăn mì cho nhanh. Mẹ dậy bốn giờ, nấu nướng xong hết rồi. Ở quê toàn thế này.”

Mẹ chồng tôi ở quê lên từ chiều hôm trước. Chuyến xe khách lắc lư suốt bốn tiếng; đôi dép nhựa phủ bụi, tay sách một túi to mấy bó rau lang, mấy trái bưởi vừa tuốt ở vườn, thêm túi trứng gà ta còn vương lông tơ. Mẹ đặt đồ xuống nền, liếc nhanh qua phòng khách, nhà bếp, ban công, như cách người ta xem thời tiết ở một miền lạ. Bà bảo: “Nhà đẹp quá. Con chắc bôn ba vất vả lắm mới sắm sửa được nhỉ.” Câu khen nghe như tiếng muỗng khẽ gõ vào thành bát—lịch sự mà lạnh. Tôi cười, đáp vài câu, nhắc chồng kéo vali lên phòng ngủ khách. Chồng tôi, Duy, sốt sắng: “Mẹ lên chơi dăm bữa cho vui. Ở quê suốt chán lắm.”

Đêm ấy, tôi trằn trọc. Mẹ ở đây vài ngày thôi, mà bất kỳ ai làm dâu đều hiểu vài ngày ấy dài hơn cả tuần công sở. Lúc lắng nghe tiếng mẹ ho nhẹ trong phòng, tôi nhớ bát phở gà. Ý nghĩ lóe lên từ lúc thấy túi trứng gà ta: sáng mai tôi sẽ dậy sớm, ninh nồi nước lèo thơm lừng, xé thịt gà, trụng bánh, rắc hành, rưới chút mỡ tỏi—mời mẹ bát phở gà đúng kiểu Hà Nội. Tôi không thành thạo nhiều món, nhưng phở gà là tủ. Một bát phở có thể nối hai bờ xa lạ: mẹ — con dâu.

Chuông báo 5 giờ. Tôi lò dò ra bếp.

Mới vừa đặt chân qua cửa, tôi thấy mẹ đang đứng cạnh bếp, trên tay là một cái bát gì đó bốc khói. Mùi bốc lên không phải phở mà là mì tôm hầm gà, nước vàng đục, lềnh bềnh mỡ. Mẹ và bếp đều đang thức. Mẹ đưa bát lên húp một cái, thấy tôi, sượng vài giây rồi chữa: “Ăn sáng đi con, mẹ nấu xong rồi.”

Tôi nhìn vào bát mẹ đặt sang cạnh: phần của tôi—cũng là mì tôm, sợi nở bở, vài sợi hành lá úa, mấy miếng thịt gà xé nhỏ đến nát, da vàng nhũn như trái chuối chín bóc bỏ tủ mát quá lâu. Gà ở đâu ra? Con gà tôi để trong ngăn mát tối qua để sáng nấu phở, đỡ hôi, chắc đã vào nồi. Tôi nghe tiếng gì lạo xạo trong ngực: một nhúm hạt muối bị đổ nghiêng. Tôi nuốt xuống. “Dạ, để con… con định nấu phở gà cho mẹ.”

Mẹ cười: “Ôi dào, phở với phèo! Ăn mì cho nhanh. Mẹ dậy bốn giờ, nấu nướng xong hết rồi. Ở quê toàn thế này.” Bà nói như người chấm câu cuối cùng vào một đoạn văn dài, không chờ ai chỉnh sửa.

Tôi kéo ghế, ngồi xuống, chạm thìa vào sợi mì mềm oặt. Những tiếng “sột soạt, sột soạt” phát ra đều đặn. Duy từ phòng bước ra, tóc còn rối, vừa vươn vai vừa ngáp: “Trời ơi thơm thế. Mẹ dậy sớm thế ạ?” Mẹ bảo: “Mẹ quen giấc thôi.” Duy vớ bát của mình, ăn ngon lành, quay sang tôi: “Ơ, em không ăn à?”

Tôi lắc đầu. Trong đầu hiện lên hình ảnh con gà ta, bộ xương trắng nhợt sau khi ninh kỹ, và bát phở có mùi gừng nướng, hành tây, hoa hồi—tất cả vừa kịp chín tới. Ấy là ước mơ ngây ngô của tôi. Còn hiện thực là bát mì tôm nhường nhịn, với câu nói “mẹ nấu xong rồi” như một tấm biển cấm lùi, treo ngay giữa bếp.

Tôi đứng lên, đi vào phòng, mở tủ áo, thò tay vào ngăn nhỏ có phong bì tôi định biếu mẹ năm triệu. Tôi suýt rút ra, rồi dừng. Ngón tay rút lại như con ốc chui vào vỏ, khép chặt. Tôi cất luôn năm triệu vào tủ. Một tiếng “cạch” rất khẽ. Muốn giấu ai? Chắc chỉ giấu sự run rẩy của chính mình.


Ngày thứ hai, nhà tôi giống một căng dây. Mẹ để đồ vào tủ chén theo quy luật riêng: nặng dưới, nhẹ trên. Tôi quen tay để bát ăn cơm tầng giữa, nên mỗi lần cần bát lại phải khom người. Mẹ để thau rửa rau vào bồn, mè xửng trong hũ đường, hũ cà phê ở cạnh bột nêm. Tôi rót cà phê, mẹ bảo: “Con trẻ, uống cà phê nhiều sinh hỏa.” Tôi nén lại: “Dạ.” Mẹ đi theo tôi vào phòng trẻ, lật chăn xem con bé ngủ có đạp chăn không, thở đều chưa, nói nhỏ: “Ngày xưa tôi đẻ ba đứa, cứ đắp lá mít là hết nôn trớ.” Tôi cười như cái móc áo treo miệng. Duy đi làm, nhắn tin: “Chiều em về sớm nhé, mẹ muốn ăn canh cua.” Tôi cắn môi. Canh cua thì nấu. Nhưng trong lòng, mỗi tiếng “mẹ muốn” như gõ, như gõ…

Bữa trưa, tôi lỡ bỏ nhiều cá vào canh, mẹ nhăn mặt: “Nhà trên này ăn mặn ghê.” Bữa chiều, tôi nấu ít cơm vì tưởng ăn ít, mẹ buông đũa sớm: “Nhìn cơm như ăn sáng ở khách sạn, chả đủ no.” Tiền điện tháng này cao, mẹ bảo: “Đàn bà con gái bây giờ sướng quá nên không biết tiết kiệm.” Tôi lấy quần áo về nhà ngoại giặt cho con, mẹ nhận xét: “Bên ngoại lúc nào chả dễ, chiều con quá hóa hư.” Những câu nói như rắc muối lên vết xước.

Tối đến, tôi mở tủ lấy cái phong bì, lại đóng vào. “Hay cứ đưa mẹ?” – một giọng trong tôi thì thào, nhưng một giọng khác dằn lại: “Tại sao? Tại một bát mì tôm, tại nỗi chạm nhỏ nhoi, tại cảm giác quyền của mình trong căn bếp bỗng biến mất?” Tôi đặt phong bì sâu hơn, kẹp giữa mấy cái áo len.

Đêm, Duy ôm tôi: “Mẹ lên đây cũng nhớ con nhớ cháu. Em cố nhịn mấy ngày cho êm.” Tôi hỏi: “Anh có thấy bát phở gà của em không?” Duy im. Anh nói: “Anh biết em muốn thể hiện. Nhưng mẹ quen nếp quê. Mẹ nghĩ nấu cái gì xong là xong, ai cũng ăn được.” Tôi nói: “Vấn đề không phải bát mì. Là câu ‘mẹ nấu xong rồi’ đặt ngay đầu ngày. Em thấy như em bị đẩy ra khỏi bếp nhà mình.” Duy thở dài: “Ừ. Anh hiểu. Để mai anh nói khéo.”

Nhưng sáng mai, khi Duy vừa mở lời: “Mẹ ơi, ở đây để vợ con thu xếp cho tiện ạ,” thì mẹ nhìn tôi: “Con gái giờ độc lập quá nhỉ.” Tôi bưng chén trà, bỏ đường, khuấy nhẹ, nhìn vòng xoáy đường tan như lời xin lỗi chưa kịp nói đã hòa vào nước.


Biến cố đến vào một đêm oi ả. Con bé sốt. Trán nóng như viên đá đặt vào lửa, người lả đi. Tôi tra nhiệt kế: 39.2. Tôi bồng con, dốc thuốc hạ sốt vào miệng, lau người. Mẹ giật lấy khăn: “Để tôi. Đắp lá trầu là hạ sốt.” Tôi gắt: “Mẹ ơi, con theo chỉ định bác sĩ.” Mẹ trợn mắt: “Bác sĩ bác sĩ! Ngày xưa tôi đẻ ba đứa, ốm đau toàn tự lo.” Con bé khóc thét. Duy ở giữa, mắt đảo qua đảo lại như con tem chưa có bì thư để dán. Tôi nói gấp: “Em đưa con đi viện.” Mẹ chặn lại: “Sốt tí xíu đã chạy đi viện, phí của.”

Tôi bế con đi thẳng, Duy kịp cầm chìa khóa, nhìn mẹ rồi chạy theo. Mẹ đứng ở ngưỡng cửa, đôi dép nhựa và cái bóng đổ dài trong ánh đèn. Tôi biết bà thấy mình bị bỏ lại.

Ở viện, bác sĩ khám, hạ sốt, truyền nước. Con bé nằm thiêm thiếp. Duy nắm tay tôi: “Xin lỗi. Mẹ sợ tốn tiền, sợ thành phố, sợ hào nhoáng nuốt con.” Tôi nhìn con, cảm giác mệt mỏi tan ra, để lại một khoảng trống. “Em sợ khác. Em sợ nhà mình là nhà người ta.”

Chúng tôi về lúc gần sáng. Mẹ ngồi ở bàn, trước mặt là bát cháo trắng đã nguội, muỗng cắm nghiêng. Bà nhìn tôi, nói, giọng khàn: “Tôi tưởng… con bé như anh em nó ngày xưa. Ngày ấy nghèo, có gì ăn nấy, sốt thì đắp lá.” Tôi đặt con vào nôi, đắp chăn. Tôi quay lại, nói chậm: “Ở đây khác, mẹ ạ. Con sai gì mẹ cứ nói. Nhưng chuyện của con, con chịu trách nhiệm.”

Mẹ cúi đầu, gật. Những sợi tóc bạc ở vành tai như những nhánh cỏ mỏng, run nhẹ.

Sáng hôm sau, tôi quyết định nấu phở gà. Duy đưa mẹ đi chợ. Tôi ở nhà rửa xương, trụng bánh, nướng gừng, nướng hành. Tôi muốn bữa phở hôm ấy như một tấm bản đồ mới, có đường và ranh giới rõ ràng. Khi hai người về, mẹ ôm một con gà ta trong túi lưới, miệng nói không ngừng: “Cô bán gà bảo gà này chạy bộ, chắc lắm. Ở quê bà ấy nuôi sạch.” Duy cười: “Mẹ chọn đúng rồi.”

Tôi nói: “Mẹ để con nấu nhé. Hôm nay con mời mẹ một bát phở.” Mẹ đứng lại, nhìn tôi vài giây. Bà buông túi, nhìn bếp, nhìn nồi nước lèo đang trong, mùi hoa hồi, quế, gừng quyện nhau. Bà bảo, nhẹ như một tiếng thở: “Ừ, tùy con.”

Trưa, cả ba người ngồi vào bàn. Tôi chan nước, đặt thịt, rắc hành, ruốc, tưới mỡ tỏi, lên màu. Mẹ đưa bát lên, nếm. Bà nhắm mắt, như nghe một bản nhạc lạ mà trong đó vài nốt lại rất quen. “Ngon,” mẹ nói. Rồi bà kể: “Hồi trẻ, tôi bán phở bò ở bến xe. Mỗi sáng bốn giờ gánh hàng, nước dùng sôi đến đâu mồ hôi rịn đến đấy. Sau này cấm bán rong, tôi bỏ. Con biết tôi ghét gì nhất không? Ghét người khách vừa đến đã bảo ‘Bà cho tôi bát phở ngon.’ Như thể tôi nấu bát dở cho mình sao.” Bà cười, mới lạ. “Chắc vì vậy nên sáng hôm kia tôi… vội. Thấy gà là nghĩ ngay món nhanh. Mì tôm nhà nghèo, làm xong gọi là có bữa. Tôi quên mất ở đây khác, và con cũng khác.”

Tôi nghe câu “mì tôm nhà nghèo” như một chiếc đinh được rút ra từ tấm ván lâu ngày. Khoảng trống đó chưa phải là cửa sổ, nhưng gió đã lọt. “Con cũng quên mất mẹ là ai,” tôi nói. “Con tưởng món ăn sẽ nói thay mọi thứ. Nhưng hình như có khi phải nói bằng miệng: Mẹ ơi, đây là nhà con. Con muốn nấu phở cho mẹ. Con mong mẹ tôn trọng.”

Mẹ gật: “Tôi nghe.” Bà đặt đũa, mắt nhìn xuống bàn tay chai sần, móng tay cắt cụt. “Ở quê, người già như tôi được việc thì thấy mình còn giá trị. Lên đây, cái gì cũng đầy đủ, tôi thấy thừa. Tôi cầm cái thìa lên mà chẳng biết múc vào đâu. Nên tôi tranh nấu, để thấy tôi vẫn còn.” Bà ngước, nhìn thẳng vào tôi: “Nhưng tôi cũng hiểu mình lấn. Tôi xin lỗi vì bát mì tôm đó.”

Duy ngồi giữa, thở ra, như kẻ vừa vượt một bờ tường.


Buổi chiều, tôi đem ít quần áo giặt, trong lúc phơi, gió làm mở hé cánh tủ mẹ. Tôi đưa tay đóng lại, vô tình thấy chiếc túi vải mẹ dùng. Nó cũ đến mức vải mủn ra ở mép, khâu bằng chỉ xanh đỏ. Trong túi có một cuốn sổ nhỏ, bìa giấy cactông cắt từ vỏ mì. Tôi tò mò lật. Bên trong là những dòng chữ nắn nót: “Tiền xe: 200.000. Trứng mang lên: 0. Mua quà cho cháu: 50.000. Tiền đưa con: không.” Tôi giật mình. Tôi lẽ ra đã đưa phong bì năm triệu, nhưng vì cơn giận nhỏ, vì bát mì, tôi rút lại. Mẹ đã nghĩ đến chuyện đưa tôi, chứ không đòi. Bên cạnh có mấy gói nhỏ muối, bột ngọt, tiêu. Thói quen của người nấu bếp: đi đâu cũng thủ sẵn gia vị, như người đi xa đem theo quê hương.

Tối đó, khi dọn bàn, tôi bảo mẹ: “Mẹ này… sáng kia con có chút giận. Con tính biếu mẹ ít tiền đi đường, mà con cất lại. Con xin lỗi.” Mẹ xua tay: “Ơ kìa, tiền bạc tính gì. Tôi lên đây coi cháu, ăn bát phở là đủ rồi.” Bà dừng một nhịp, rồi nói tiếp: “Nhưng mà… nếu con định gửi, con gửi giùm tôi cho chị cả cái mái tôn. Nhà dột.” Tôi gật. Bất giác thấy nhẹ. Tôi mở tủ, lấy phong bì, đếm lại. Vẫn năm triệu. Tôi đặt vào tay mẹ. “Mẹ giữ, lúc nào tiện thì gửi. Con với Duy sẽ gửi thêm.”

Mẹ nắm phong bì, mắt nhìn xa. “Cảm ơn con.”

Duy lén nhìn tôi, cười qua ánh đèn bếp.


Ngày cuối cùng, trời đổ mưa rào. Tiếng mưa trên ban công nghe như ai đó rửa sân. Mẹ gom đồ, xếp rau còn lại vào túi, lấy bưởi xuống, dặn: “Để chỗ thoáng kẻo thối cuống.” Bà đi một vòng quanh nhà bếp, chạm tay vào kệ, vào bếp ga. Tôi nói: “Mẹ ơi.” Mẹ quay lại. “Mai mẹ lên nữa, mình cùng nấu phở. Con để mẹ nướng gừng, mẹ nướng ngon hơn con.” Mẹ cười: “Tôi nướng gừng cả đời rồi, giờ nướng cho con, cũng vừa.”

Duy chở mẹ ra bến xe. Tôi đứng ở cửa, ôm con, nhìn hai bóng lưng nhỏ dần. Trước khi đi, mẹ dúi vào tay tôi một túi nylon: “Trứng gà ta, mai ăn sáng. Nhưng đừng nấu mì tôm nhé,” bà nói, giọng có tí trêu. Tôi và mẹ cười, nhẹ như mưa vừa tạnh.


Mẹ về, nhà bỗng yên, yên đến mức nghe được tiếng đồng hồ treo tường cóc cách. Tôi lau bàn, rửa bát, cất nồi. Tôi mở tủ, nhìn khoảng trống nơi phong bì đã nằm. Tôi đặt vào đó một tờ giấy: “Nhà mình — luật bếp: Ai nấu, người ấy quyết. Ai ăn, người ấy góp ý sau bữa.” Tôi dán tờ giấy trong bếp, chỗ dễ thấy nhất. Không phải để nhắc mẹ, mà để nhắc chính tôi và Duy. Không ai “nấu xong rồi” cho cuộc đời ai cả. Chúng tôi phải học cách nói với nhau trước khi nước sôi.

Tối, điện thoại reo. Là mẹ. “Tới nhà rồi. Trên xe tôi ngồi cạnh cô bán đậu, cô ấy bảo bát phở của con ngon, mà nhìn cách con chan, con rắc hành là biết con biết thương.” Tôi cười: “Ai nói với mẹ?” Mẹ đáp: “Tôi nói với tôi.” Rồi bà dừng: “Cái mái nhà chị cả dột thật. Đợi mưa tạnh, tôi nhờ người lên lợp. Con đừng gửi thêm, tôi có rồi.” Tôi bảo: “Mẹ cứ lo việc của mẹ. Ở đây, bếp có quy luật. Ở đó, nhà có mái tôn. Mỗi nơi có một thứ mình giữ.”

Sau cuộc gọi, tôi pha ly cà phê. Vẫn là cà phê tôi thích, dù mẹ bảo “sinh hỏa”. Tôi uống, nghĩ đến bát mì tôm ngày nào. Nó không chỉ là bữa sáng vụng, mà là một thông báo: có một người, với thói quen cũ, với kiêu hãnh và hữu dụng của đời mình, đang cố chen vào căn bếp hiện đại của tôi. Tôi đã giận, đã cất phong bì. Rồi tôi mở tủ. Cũng như sau khi nấu phở, tôi mở nắp nồi, để hơi bay ra, cho mùi hương tản khắp. Muốn ở chung, phải học khí trời của nhau.


Một tháng sau, mẹ gọi: “Ở dưới này vào mùa gặt. Lúa thơm lắm. Nếu hai đứa rảnh, về chơi.” Duy nhìn lịch. Cuối tuần trống. Tôi gật, bảo: “Về.” Mẹ như nghe thấy nụ cười của tôi qua sóng, giọng vui: “Tôi bắt gà. Phở gà hay mì tôm?” Bà cười khúc khích. Tôi đáp: “Phở gà, mẹ. Nhưng để con nêm. Và mẹ… nướng gừng.”

Trong bếp nhà mẹ, cái bếp than tổ ong đỏ rực. Tôi ngồi trên cái ghế thấp, nồi nước dùng sôi lăn tăn. Mẹ đứng cạnh, lật củ gừng lên than, vỏ cháy sém, thơm nức. Chúng tôi im, im như người ta nghe sóng trong lòng đất. Duy bế con ngoài sân, bọn trẻ con hàng xóm chạy qua chạy lại. Mẹ quay sang, lại hỏi câu cũ: “Con biết tôi ghét gì nhất ở người ăn phở không?” Tôi cười: “Dạ, ghét người bảo ‘cho bát phở ngon’.” Bà gật: “Ừ.” Rồi bà tiếp: “Nhưng tôi thích nhất người mời tôi cùng nấu. Như hôm nay.”

Bát phở được dọn ra. Tôi chan, mẹ rắc hành. Duy chụp hình, nói: “Đưa lên mạng, viết status ‘phở gà nhà ngoại’.” Tôi lườm: “Nhà nội.” Mẹ cười ngặt nghẽo: “Nhà nào thì cũng là nhà.”

Chúng tôi ăn, nước dùng ngọt, thịt gà dai, hành lá xanh. Tôi nghĩ, hóa ra kết thúc rõ ràng cho những người trong gia đình không phải là chia thắng bại, không phải là vạch kẻ sân như kẻ sơn kẻ vạch đường. Kết thúc rõ ràng là ngày bếp có quy luật, lời nói có chỗ, người già có việc, người trẻ có quyền, và mỗi bát phở được nấu bằng cả ký ức lẫn hiện tại.

Mẹ ăn xong, lau mép, nói: “Mai tôi lên thành phố chăm cháu một tuần. Nhưng tôi sẽ gõ cửa bếp trước khi vào.” Tôi nhìn mẹ, gật: “Con sẽ mở.” Duy giơ tay: “Còn anh… anh sẽ rửa bát.” Cả ba cười.

Có những mâu thuẫn không thể xóa đi—chúng là vân gỗ của một cái bàn, là vệt khói trên tường bếp. Nhưng khi ta biết đặt một bát phở xuống giữa bàn, mời nhau ngồi, vân gỗ trở thành hoa văn, vệt khói trở thành ký ức. Và một phong bì năm triệu, thay vì là một tảng đá ném vào lòng nước, trở thành viên gạch lót mái, chống dột cho một nhà xa.

Trưa nay, tôi lại dậy sớm. Tôi mở tủ, thấy tờ giấy “luật bếp” vẫn dán. Tôi bắc nồi nước, thả gừng, hành. Tôi bấm máy, nhắn cho mẹ: “Mẹ ơi, mai lên, con nấu phở. Mẹ nướng gừng nhé.” Tin trả về: “Ừ. Và con đừng cất phong bì nữa. Cái gì cho đi thì nhẹ.” Tôi đứng trong bếp, cười. Lần này, tôi sẽ để nồi nước sôi đúng lúc. Không ai nói “mẹ nấu xong rồi.” Cũng không ai bị đẩy ra ngoài. Chúng tôi học cách đứng cạnh nhau, trong mùi phở gà.

Related Posts

Our Privacy policy

https://cantho24.com - © 2025 News