×
×

Dẫn con gái về thăm gia đình chồng ở Quảng Trị, đang nấu bữa cơm đầu tiên tôi nghe lỏm được cuộc trò chuyện của chị chồng với mẹ rằng sao phải làm rình rang đãi cơm tôi làm gì cứ cá khô với cơm trắng là được rồi vì tôi có s-inh đư-ợc c-on tra-i đâu

Chiếc muôi gõ nhẹ vào thành nồi đang sôi, vang tiếng trong như tiếng chuông nhỏ. Hơi nước mùi sả và ớt bốc lên làm mờ ô kính cửa bếp. Qua lớp kính đọng hơi ấy, tôi thấy loáng thoáng hai bóng người, một dáng thấp tròn, một dáng cao mảnh, cái bóng của tay áo phất qua, rồi một câu gãy chìa khóa rơi xuống nền gạch ướt:

“Làm rình rang chi cho tốn. Nó… có đẻ được thằng cu mô. Cá khô với cơm trắng là được rồi.”

Tôi đứng im, tay vẫn đặt trên nắp nồi. Hơi sôi xì xì như tiếng ai cười khẩy nhỏ. Bên kia cửa, giọng người chị chồng, mềm như cọng cói, nhưng rít qua kẽ răng. Mẹ chồng thì thào, tiếng thở vấp váp. Tôi không nghe thấy bà nói gì thêm, hoặc giả bà không nói. Có những im lặng, hình như còn nặng hơn một câu thốt ra.

Đấy là buổi trưa đầu tiên tôi dẫn con gái về nhà chồng ở Quảng Trị. Con bé đang ngủ gà ngủ gật trên chiếc chõng tre nơi hiên, đôi tay ôm chặt con búp bê vải. Gió Lào lùa qua sân, khô và nóng như ai đưa tay kéo sát cái mùa hạ lại, dán vào da. Hồi lên xe từ Huế ra, tôi còn định bụng về tới, sẽ làm một bữa canh chua cá bớp, mấy món rau luộc, bát nước mắm ruốc, đơn giản mà nhà quê. Chồng tôi—Hải—ngồi ghế trước, quay lại, cười: “Cứ để anh lo, em. Nhà anh thích mắm ruốc lắm.”

Giờ thì, vẫn là mắm ruốc, vẫn là căn bếp có cánh cửa gỗ sơn đã phai, vẫn là cái kệ treo toàn nia rổ, chỉ khác là câu nói kia vừa rơi vào người tôi, như cái xương cá mắc ngang cổ họng.

Tôi mở nắp nồi, hơi nóng xộc vào mặt. Nồi canh tôi vừa bắt tay vào nấu—nước sôi, sả đập dập, dứa thái lát—bỗng dưng trở thành một thứ gì đó lỏng lẻo, vô nghĩa. Tôi bắc nồi xuống, đặt nhẹ lên bếp như sợ làm kinh động chút lòng tự tôn nào còn sót lại trên bàn thờ tổ tiên nơi phòng khách.

“Cơm trắng với cá khô.” Tôi lặp lại trong đầu, câu chữ chạm vào nhau, tóe ra những tia lửa mà mắt không thấy. “Vì tôi không đẻ được con trai.”

Con gái tôi—con gái chúng tôi—tên Mít, tóc cắt ngang má, tai đeo đôi khuyên bạc nhỏ bà ngoại mua ở chợ Đông Ba. Con bé thích ăn xoài chấm ruốc, thích nhảy dây và xếp đá trên bờ ao. Con bé đang mơ, chắc là mơ về con cá chép màu đỏ ở hồ nhân tạo nhà bà nội mới mua Tết rồi chết sau ba ngày. Nó mơ, không biết ở phòng bếp, người ta vừa lên kế hoạch đãi mẹ nó bằng cá khô.

Tôi tắt bếp, rửa tay qua loa, rồi đi ra hiên. Hải đang đứng nói chuyện với ông Tư hàng xóm, chuyện mùa cát lên ở Cửa Việt năm nay dày hay mỏng. Anh quay sang tôi, mắt hỏi: “Ổn chứ?” Tôi cười: “Ổn.” Tôi cúi xuống hôn Mít lên trán. Rồi tôi nói với anh: “Em ra chợ một chút.”

“Để anh chở.”

“Không. Em đi bộ cho mát.”

“Giờ này mát chi. Gió Lào đang thổi.”

“Thì cho nó khô người,” tôi nói, giọng nhẹ như gió tháng ba, “Anh ở nhà coi con giùm em.”

Tôi bước qua khung cửa, đi qua hai cái bóng bếp vừa rồi, bỗng biến mất như những cái bóng biết xấu hổ. Mẹ chồng ngẩng lên, mắt bà vấp vào mắt tôi, rồi lảng đi, gương mặt có một vệt nhăn mới. Chị chồng—chị Thu—kéo góc khăn trùm đầu, nụ cười như lưỡi dao khía vừa đủ để một trái cây chín rỉ nước.

Chợ Cửa Việt cách nhà mười phút đi bộ nếu không có gió, nhưng hôm ấy gió như xé, con đường đất đỏ lấm tấm những đốm cát bám dính. Tôi vẫn đi, chân bám đất, mắt nhìn thẳng. Tôi không có kế hoạch gì ngoài việc biết rằng nồi canh tôi mới bắc xuống bếp sẽ không bao giờ quay lại vị trí cũ.

Chợ chiều đứng thở phập phồng như một sinh vật lớn. Qua cổng, mùi cá khô đập vào mặt tôi, mùi mắm ruốc, mùi nắng gắt còn dính trên lưng những người phụ nữ bán hàng. Tôi bước qua hai sạp cá khô treo lủng lẳng những chuỗi màu nâu rắn rỏi, không dừng lại. Tới quầy hải sản tươi, mắt tôi sáng lên như một bóng đèn vừa được nối đúng dây.

“Chị lấy gì?” người đàn bà đeo găng cao su đỏ hỏi, giọng lanh lảnh.

“Tất cả những gì tươi nhất,” tôi nói. “Cho tôi tám con ghẹ xanh, hai ký tôm hùm baby, năm ký mực ống, ba ký hàu, hai ký ngao hai cùi, thêm ít cá chình làm lẩu.”

Chị bán hàng đờ người nửa giây, rồi cười, cái cười như nước vỡ bờ: “Đám cưới hay thôi nôi chi mà vui ri?”

“Đãi một bữa cơm,” tôi đáp. “Đãi bữa cơm đầu tiên.”

Những con ghẹ bị bắt ra khỏi bể, chân kẹp lia lịa, ánh xanh lục dưới nắng mạnh như ngọc bích. Tôm hùm béo, nhúc nhích. Mực ống còn phun mực thành đốm đen trên cái thau nhôm. Hàu dúm dó, miệng khép kín, bên trong ẩn ý một thứ ngọt lịm. Tôi đứng nhìn, tay đếm, miệng không nói thêm một lời. Thuê thêm hai cậu thanh niên chở đồ bằng xe máy. Ghé cửa hàng đồ gia dụng, tôi mua một cái nồi lẩu inox sáng loáng, hai bếp ga mini, mấy bình ga dự phòng. Trên đường về, tôi ghé tiệm photo—dịch vụ công chứng kiêm in ấn—cạnh ủy ban xã. Tôi cầm một tập giấy trắng, cái bấm ghim, và một chiếc phong bì to màu vàng.

Về đến nhà, sân đã mát. Bóng cây trứng cá đổ dài trên nền xi măng rạn nứt. Ông nội đang lấy bàn chải cọ cái nồi gang to, bảo để lát nữa nấu gì cho thơm. Hải thấy tôi, mắt anh trợn lên khi thấy thùng xốp. “Em… đi chợ như đánh trận.”

“Ừ,” tôi nói, và cười—một cái cười mà chính tôi cũng nghe lạ. “Đánh trận thôi.”

Mẹ chồng nhìn thùng hải sản, bà đờ ra, rồi quay qua nhìn chị Thu. Chị Thu nhếch môi một đường ngắn, sau đó bặm chặt.

Tôi không hỏi thêm, cũng không giải thích. Tôi cột tóc, rửa tay, ra hiệu hai cậu thanh niên đổ ghẹ vào chậu, ngâm đá. Tôi rửa mực, lột màng, cắt khoanh. Tôi lấy đầu tôm hùm ra, xào với bơ, tỏi, sả, rồi đổ nước dùng xương đã hầm lúc sáng vào, thêm nước dừa, thả cà chua, dứa, bạc hà. Tôi nêm mắm ruốc… loại ngon nhất tôi vừa mua—thứ mắm ruốc sánh, tím sậm, mùi đặc quánh như kỷ niệm quê nhà. Tôi bày rau: cải bẹ xanh, bắp chuối, rau đắng, hoa chuối thái chỉ, rau ngổ, thì là, rổ ớt hiểm đỏ ba trái.

Cái mùi thơm ấy—mùi của biển, của mỡ tỏi, của sả, của ruốc—bò qua hiên, qua phòng khách, qua chiếc tủ gỗ đóng hồi cưới mẹ chồng, bò lên đến bàn thờ nơi bức ảnh ông cố nhìn xuống bằng đôi mắt mòn mỏi. Láng giềng ngó qua, đứng ngoài rào râm ran. “Răng mà thơm ri?” “Nhà ni làm đám chi?” “Ui chao, nhìn ghẹ mà muốn xỉu.”

Khi nồi lẩu đặt giữa bàn, hơi nghi ngút, Mít chạy lại, mắt như hai cái trăng non. “Mẹ mẹ, hải sản!” Con bé vỗ tay. Nó không biết rằng, trong tiếng sủi bọt của nồi lẩu, có tiếng một sợi dây trong ngực tôi đang căng ra, mỏng như tơ tằm, nhưng sắp đứt.

“Ngồi đi anh,” tôi nói với Hải. “Mẹ, mời mẹ.” Tôi đưa đũa gắp con tôm, chẻ ra, chấm vào chén muối tiêu chanh có vài hạt ớt. Con tôm ngọt tới mức tôi suýt khóc vì một thứ vô cùng bình thường.

Hải gắp cho Mít, cười: “Con ăn từ từ. Nóng.” Rồi anh nhìn tôi, ánh mắt tìm kiếm. Có vẻ anh chưa hiểu hết cái đang diễn ra. Anh chưa nghe những lời ở bếp. Anh vẫn là anh—người đã đưa mẹ con tôi qua mưa bão, qua những tháng ngày đi làm đêm ngủ ngày ở thành phố, người đã kiên nhẫn tập cho Mít đi xe đạp, dạy con đọc chữ “Quảng Trị” bằng giọng miền Trung, kéo dài chữ “Trị” như kéo một sợi kẹo.

Nhưng bàn tay anh lúc này không ở phía tôi, mà đang khoanh trước ngực, vô thức bảo vệ một điều gì đó mơ hồ mang tên “nhà chồng, gia đình, tập tục.” Điều đó nằm giữa chúng tôi và nồi lẩu.

Tôi ăn một miếng mực, rồi đặt đũa xuống. Tôi ngẩng lên, nhìn thẳng vào mẹ chồng và chị Thu, giọng bình tĩnh:

“Con vừa nghe một câu ở bếp. Con không chắc con nghe đúng, vì tiếng bếp hay méo chữ. Nhưng con thấy món lẩu này, nếu ăn mà trong lòng căm hờn, thì nó sẽ đắng. Con muốn nó ngọt. Nên con nói ra.”

Cả bàn im. Hải ngẩng phắt. Ông nội đặt chiếc đũa xuống lặng lẽ, cái răng vàng lóe lên một thoáng khi ông mím môi.

Tôi lặp lại câu nói tôi đã nghe, từng chữ, không thêm bớt. Xong, tôi nhìn chị Thu.

Chị Thu cười nhạt, bẻ một miếng bánh tráng: “Ui chao, con dâu thành phố nghe một câu mà như nghe sấm. Chị nói chơi rứa thôi. Nhà nghèo, ăn cá khô qua bữa, có chi mô. Đẻ hay không đẻ con trai, là chuyện Trời. Nhưng ai mà chẳng muốn có thằng cu nối dõi—”

Mẹ chồng bỗng chen vào, giọng gấp: “Thu! Im đi!” Bà quay qua tôi, mắt bà lóa như người vừa mới đi từ ngoài nắng vào. “Mạ… mạ không nói chi. Mạ không bao giờ nói rứa. Mạ… Mạ…” Bà nghẹn.

Hải đứng lên, ghế kêu cọt kẹt: “Chị, em nói thiệt, đừng nói trước mặt con dâu những câu rứa. Con gái hay con trai cũng là con. Mít là con của em. Vợ em…”

“Rứa chớ trước khi về đây,” chị Thu phẩy tay, “em nói răng? Em dặn mạ chi? ‘Làm đơn giản thôi, bọn con ăn không được nhiều.’ Rứa mà chừ, bày cả biển lên. Ai mượn? Người ta tưởng nhà ni khoe. Anh em họ hàng, người ta nói vào mặt mạ, ‘nhà bà Hường (tên mẹ chồng tôi) có con dâu nhà giàu, mới về đã xài sang.’ Rồi người ta nhớ tới chuyện… chuyện cái nhà đang cầm sổ đỏ ở ngân hàng. Ai lo? Có phải vợ chồng em không? Tui nói mô phải tui không thương mạ. Tui lo, tui nói mạ ăn cá khô cũng được, để dành tiền trả lãi. Tui lỡ mồm, tui nói… những chữ không nên nói. Ờ, tui hư.”

Cái cách chị nói “tui hư”, như trả thù một ai, mà không phải ai, nhìn quanh tìm cái gương mặt để ném vào, cuối cùng ném luôn vô không khí.

Tôi nhìn chị, nhìn mẹ chồng, nhìn Hải. Đột nhiên, tất cả giống như một vở kịch. Một vở kịch mà mỗi người nói một vai, còn tôi, vai của tôi là người bếp. Vai của tôi là bưng nồi lẩu lên, rót canh, gắp mực, và nhắm mắt lại cho ngọt.

Tôi đứng dậy, đi vào buồng, mở túi xách. Tôi lấy ra tập giấy trắng mua ở tiệm photo. Tôi ngồi xuống bàn, viết: “ĐƠN YÊU CẦU GIẢI QUYẾT LY HÔN.” Tôi viết tên tôi, tên Hải, ngày đăng ký kết hôn, nơi đăng ký. Tôi viết “lý do”: khác biệt quan điểm sống không thể hàn gắn, tổn thương tinh thần do môi trường gia đình chồng kỳ thị giới tính con. Tôi viết “con chung”: một, tên Nguyễn Thảo Mít, sinh năm… Tôi viết “nguyện vọng nuôi con”: tôi, và tôi sẵn sàng tạo điều kiện để cha thăm nom. Tôi viết nhanh như thể ai đó đang đếm ngược trong đầu tôi. Tôi không run. Tôi chỉ nghe một tiếng động bên trong, như tiếng chốt cửa thụt vào một lỗ khóa, rồi khép lại.

Tôi kẹp đơn vào phong bì vàng, dán lại. Tôi chụp hình bằng điện thoại, gửi file PDF qua email cho văn phòng luật sư của người bạn ở Đông Hà—chị ấy từng nói, nếu có gì, cứ nhắn. Tin nhắn gửi đi. Tôi đứng dậy, đẩy chiếc ghế trở về chỗ cũ.

Bước ra, tôi đặt phong bì trên bàn ăn, bên cạnh bát nước chấm ớt tỏi.

Hải trông thấy. Mặt anh đổi sắc. Anh hiểu ngay. Có những người đàn ông hiểu mọi chuyện rất chậm, nhưng có những người hiểu ngay những thứ họ không muốn hiểu.

“Em… làm chi ri?” giọng anh khàn.

“Tôi gửi đơn.” Tôi không nhìn anh, mắt tôi dừng ở con hàu vừa mở miệng hơi. “Ngay lập tức.”

Không ai lên tiếng. Ông nội hắng giọng, như hồi xưa ông báo hiệu trước khi đọc một đoạn thơ. Mẹ chồng ngồi xuống, hai bàn tay nắm lấy nhau chặt tới mức móng tay trắng bệch. Chị Thu nhìn tôi, ánh mắt lóe một tia khoái cảm ngắn ngủi, rồi tắt ngúm, để lại một vùng tối.

“Ăn đi,” tôi nói với Mít, giọng dịu đi. “Chuyện người lớn, mắc chi tới con.”

Con bé nhìn tôi, đôi mắt ngơ ngác. Nó gắp một miếng cá chình bỏ vào bát tôi, kiểu cách của một đứa con muốn làm hoà mà không hiểu có cuộc chiến nào vừa nổ.

Bữa ăn diễn ra, tiếng đũa chạm bát lạch cạch như ai đánh một bài ca cũ nhưng không thuộc lời. Tôi không thấy vị. Tôi ăn như một cái máy. Nồi lẩu cạn dần. Người hàng xóm rụt rè thò đầu vào, rồi rụt lại.

Khi dọn bàn, tôi đưa phong bì cho Hải. “Anh đọc đi. Tối nay em về lại Huế. Sáng mai em nộp bản giấy ở toà huyện Gio Linh. Bản mềm đã đi rồi.”

Anh cầm phong bì, tay run. Anh mở. Đọc. Khóe miệng anh giật nhẹ như ai búng vào một dây thần kinh vô hình. Anh ngẩng lên, mắt đầy những câu hỏi không biết bắt đầu ở đâu. Rồi anh im, như bức tường cũ trong nhà này. Chính cái im ấy, tôi biết, là lý do.


Tối đó, tôi thu xếp đồ. Mít gấp con búp bê lại, đặt vào balo. Con bé bảo: “Mẹ ơi, con muốn ngủ trên xe.” Tôi nói: “Ừ.” Mẹ chồng đến cửa buồng, tay cầm một cái túi vải. Bà lúng túng: “Mạ… mạ xin lỗi. Mạ… hồi xưa, mạ sinh ba đứa con trai, hai đứa chết vì sốt rét, một đứa vì chiến tranh. Mạ còn mỗi Hải. Mạ… ngốc. Mạ tưởng ‘con trai’ là cái gì đó phải giữ, phải lấy. Rứa mà… mạ giữ chi, mạ mất chi. Mạ nhìn Mít, mạ thương. Nhưng mạ sợ người ta nói. Mạ… dở.”

Tôi nhìn bà. Tôi không phải cái cân để cân lời xin lỗi. Nhưng một phần trong tôi hiểu cái bóng dài của những năm tháng. Tôi nhận cái túi vải. Trong đó là mấy hũ mắm ruốc nhỏ, một gói bánh tráng, và cái khăn rằn. Bà nói: “Đi đường xa, ăn miếng mắm nhớ nhà. Răng con cũng là nhà. Con đi, con nhớ… quay lại, không phải nhà ni nữa, mà là… bất cứ nơi mô có người chờ con ăn cơm nóng.”

Tôi gật.

Chị Thu không xuất hiện. Tối ấy, khi tôi ra sân, tôi thấy chị đứng ở góc vườn, nói chuyện điện thoại, giọng gấp: “Tui nói thiệt, có con trai mới ăn nói chi cũng dễ. Tui cả đời ở đây, tui biết.” Tôi đi qua, không dừng.

Ông nội ngồi dưới bóng cây trứng cá, đốt một điếu thuốc, thổi khói. Ông gọi tôi lại, đưa cho tôi một quyển sổ bìa đỏ đã sờn—gia phả. Ông mở, chỉ vào những dòng chữ tên đàn ông nối liền nhau. Ông lôi từ túi áo ra cây bút đỏ, run run viết thêm một dòng nhỏ dưới cùng, bằng chữ ông già mộc mạc: “Nguyễn Thảo Mít—cháu nội (con gái).” Ông chấm một chấm tròn, như dấu của một niềm tin mới. “Ông không biết luật lệ người ta thường viết răng,” ông nói, “nhưng ông viết rứa cho ông yên cái bụng. Sau ni ai sửa thì sửa, nhưng từ tối ni, nhà ni có tên Mít.”

Tôi cầm quyển gia phả, thấy nặng tay. Một đoạn bất ngờ nhỏ, lóe lên như đom đóm, trong đêm mùi ruốc và mùi cát.


Chúng tôi lên xe khách đêm. Hải xách hành lý ra tận cổng. Đường bóng tối bây giờ mềm như một tấm lụa dài. Lúc đặt chân lên bậc, tôi quay lại. Anh đứng đó, vai rũ, tay vẫn giữ cái phong bì tôi đưa lúc chiều. Tôi đoán anh đã đọc lại mấy lần. “Em…” anh bắt đầu.

“Tối qua,” tôi nói, bình thản, “khi em mở miệng, em không cần anh đứng về phía em. Em chỉ cần anh đứng. Không im lặng. Ngày mai, em sẽ về Huế, nộp đơn. Nếu anh muốn tranh quyền nuôi con, mình gặp nhau ở toà. Nếu anh muốn thăm con, cửa nhà em luôn mở. Em không thù ghét. Em chỉ… biết mình phải làm gì.”

Hải gật, một động tác nhỏ như gật với chính mình. Anh đưa cho tôi một tờ giấy photo, kẹp theo cái phong bì. “Anh cũng… làm giấy. Không phải giấy ly hôn. Giấy cắt hộ khẩu khỏi nhà ni. Anh thuê nhà ở Đông Hà. Anh ở đó, đến khi nào… nếu em không thay đổi, anh sẽ làm người bố đến thăm. Nếu em thay đổi… thì… thôi. Nhưng dù răng, anh không ở lại nơi mà, chỉ một câu nói, làm em phải nấu cả biển để tự vệ.”

Tôi nhìn tờ giấy—đơn xin chuyển khẩu, và phía dưới là một tờ giấy khác—Giấy cam kết không phân biệt giới tính con cái—anh tự soạn, ký tên. Tôi không biết tòa án có nhận một tờ tự soạn như thế không. Tôi chỉ chợt thấy một cái gì nứt ra bên trong bức tường. Nhưng bức tường vẫn đứng.

“Cám ơn anh,” tôi nói.

Xe chuyển bánh. Tôi ôm Mít, nghe con bé thì thầm: “Mẹ, mai mình ăn gì?” Tôi nói: “Mắm ruốc với xoài.” Nó cười trong mơ.

Đêm đó, tôi nhắn một tin cho chị luật sư: “Em giữ quyết định. Nhờ chị nộp giúp. Sáng mai em tới ký.” Tin nhắn đến rất nhanh: “Chị hiểu. Em làm điều em thấy đúng.”


Một tháng sau, tôi nhận giấy tòa mời hòa giải. Tôi đi, bình tĩnh như vào một buổi họp công sở. Hải ngồi đối diện, gầy đi một ít. Hai bên đại diện ngồi cạnh, nói những điều cần nói. Tôi nói, không khóc. Anh nói, giọng chậm rãi. Chúng tôi thỏa thuận chế độ thăm nom. Mít ngồi với bà ngoại ở ngoài hành lang, ăn bánh bột lọc mua ở chợ Đông Hà, nhón từng miếng chấm nước mắm ớt.

Phiên hòa giải kết thúc không thành. Tòa hẹn ngày xét xử. Tôi về, treo chiếc khăn rằn mẹ chồng đưa lên sau cửa. Có những món đồ, không thuộc về một nhà nào cả. Nó thuộc về những đoạn đường người ta đi qua.

Vài hôm sau, tôi nhận một bưu phẩm gửi từ Quảng Trị. Bên trong là quyển gia phả, trang cuối gấp góc, và một tờ giấy kẹp: bản sao di chúc công chứng của ông nội. Ông để lại mảnh vườn sau nhà cho “cháu nội—Nguyễn Thảo Mít”, với điều kiện khi cháu đủ mười tám tuổi, nếu cháu muốn, có thể bán, nếu không, cứ giữ để “đi về nhà ăn mắm ruốc.” Dưới di chúc là nét chữ của mẹ chồng: “Mạ xin lỗi. Khi nào con ăn cá khô, nhớ chấm mắm ruốc ngon. Con về, mạ nấu canh bột gạo. Con thích mà, phải không?” Tôi ngồi rất lâu, tay đặt lên trang giấy như đặt tay lên một cái trán có nếp nhăn.

Tin tức về gia đình chồng cũ đến nhỏ giọt qua những người bạn. Chị Thu, vội vàng giấu câu nói của mình sau một hàng rào những câu “tui lo cho nhà,” “tui thương mạ,” “tui sợ người ta nói.” Nhưng câu nói như hòn sỏi nhỏ, ném xuống giếng, gợn vẫn chạy dài. Có người đến nhà nói với bà: “Bèo nước mắm cũng là cơm, nhưng lời nói, nếu mặn quá, nuốt không trôi.” Bà im.

Một buổi chiều, điện thoại tôi reo. Số của Hải. Tôi nghe. Anh nói rằng mỗi cuối tuần, anh về nhà ngoại thăm Mít, dạy con đạp xe ở công viên. “Con cười,” anh nói, giọng thành một cái gì mỏng tang. “Nó hỏi, khi nào ăn lẩu?” Tôi cười. “Khi nào con thích,” tôi nói, “nhưng lần này, lẩu rau.”

Một tin nhắn khác đến ngay sau đó: hình ảnh một cái bàn gỗ ở nhà cũ, mẹ chồng dựng một bữa cơm giản dị: cá khô kho tiêu, canh bột gạo, rau muống luộc, bát nước mắm ruốc. Bên cạnh, một dĩa xoài. Chú thích: “Nhà ni bữa ni ăn cá khô, không vì nghèo, mà vì nhớ. Mạ nhớ con.”

Tôi không trả lời lập tức. Tối ấy, tôi luộc một đĩa rau muống, pha bát mắm ruốc, cắt xoài chín. Tôi gọi Mít vào bàn. Con bé hỏi: “Mẹ có khóc không?” Tôi cười: “Có ăn cay không?” Nó cười sặc sụa. Tôi nghĩ đến quyển gia phả, đến cái tên đỏ chót được thêm vào một đội những cái tên đen. Tôi nghĩ đến nồi lẩu hôm ấy, tất cả hải sản đắt tiền mà tôi mua chỉ để cho một chữ “đủ” xuất hiện đúng lúc, dằn ngược lại một chữ “thiếu” người khác gán lên đời mình. Tôi nghĩ đến cá khô—thứ mà những người đàn bà ở đây đã ăn cả đời, vừa nhai vừa nuốt đi những câu người ta nói về việc sinh con trai hay con gái. Tôi nghĩ đến việc, không phải món ăn, mà là cách ta đặt món ăn lên bàn, đã quyết định một nhà là nhà hay không.


Ngày tòa xét xử, trời Quảng Trị mưa rào. Tôi đi tàu ra. Hải đến đúng giờ, mang theo một chiếc ô. Chúng tôi đứng dưới mái hiên. Anh nói: “Anh ký. Không còn gì níu nữa. Nhưng… trước khi ký, cho anh gửi cái này.” Anh đưa tôi một phong bì dày. Tôi mở. Là một bản sao giấy khai sinh mới của Mít, trong mục “Cha” là tên anh, đã làm xong các thủ tục nhận con chung theo đúng luật (một quy trình cũ kỹ bây giờ mới được gọi tên). Tôi nhìn anh.

“Anh muốn,” anh nói, “dù giấy tờ ly hôn, thì trên một tờ giấy khác, anh vẫn là cha nó. Để sau ni, khi nó lấy chồng, ai hỏi nó ‘răng không có cha đưa vô lễ,’ thì nó có giấy. Và có người.”

Tôi gấp phong bì, cất vào túi. Tôi gật. Chúng tôi vào phòng xét xử. Thẩm phán gõ búa. Câu chuyện kết thúc bằng một bản án, nhưng thực ra, nó kết thúc lâu rồi, ở lúc tôi nghe câu nói ở bếp, và ở lúc tôi đặt nồi lẩu lên bàn.

Khi bước ra cửa tòa, mưa ngớt. Tôi nhìn lên bầu trời nhờ nhờ, ngửi thấy mùi đất đỏ ướt. Điện thoại rung. Là một tấm ảnh nữa từ Quảng Trị: trang cuối quyển gia phả, dòng tên “Nguyễn Thảo Mít” vẫn đó, dưới có thêm nét bút mới, chữ của mẹ chồng: “Con gái cũng là nối dõi. Ai nói khác, mời ăn cá khô với mạ.”

Tôi bật cười—một tràng cười bất ngờ đến nỗi chính tôi phải đưa tay che miệng lại. Tôi nhắn cho mẹ chồng một câu: “Mạ kho cá khô đừng mặn quá. Con gái mạ ăn ruốc cũng lớn thành người.” Bên kia, cái dấu “đã xem” hiện lên, rồi biến mất, rồi hiện lại, như ai đó đang nắn lại những chữ quanh lưỡi mình.


Về nhà, tôi mua một cái nồi lẩu mới. Tôi không chất đầy hải sản. Tôi đổ nước xương, sả, cà chua, thả vào nhiều rau. Tôi mời mấy người bạn tới. Mít ngồi đầu bàn, nó kể chuyện sông Thạch Hãn, chuyện cầu Hiền Lương mà thầy cô đã dạy, nó hỏi vì sao người ta gọi là gió Lào. Tôi bảo, vì có những cơn gió tới bất ngờ, khô rốc, nhưng rồi cũng qua. Nó gật gù như hiểu. Tôi đặt trước mặt nó một dĩa cá khô chiên giòn. Nó ăn, mắt long lanh. “Mẹ, cá khô ngon.” Nó không biết ở nơi khác, có lần cá khô mang nghĩa khác. Bây giờ, trên bàn, cá khô chỉ là một món ăn.

Tiệc tan, tôi rửa bát, lau bàn. Tôi treo cái khăn rằn sau cửa, đặt hũ mắm ruốc lên kệ bếp. Tôi mở cửa sổ, gió thổi vào mang mùi xoài những nhà bên. Tôi nghĩ về những bất ngờ trên đời—có thứ đắng, có thứ ngọt, có thứ nuốt vào thấy bỏng họng, và có thứ làm miệng cười ra nước mắt. Chuyện của tôi, có một bất ngờ cuối cùng mà có ngày tôi mới nhận ra: không phải cái nồi lẩu đắt tiền là đòn đáp trả, mà là việc tôi cầm bút, viết một lá đơn, đặt lên bàn giữa mùi tỏi bơ và mùi ruốc. Lá đơn ấy, không chỉ chia đôi một mối ràng buộc, mà còn mở một con đường để những đứa trẻ con gái sau này có thể bước qua bếp nhà ai đó, ngồi ăn cá khô với cơm trắng, mà không thấy mình kém đi một sợi tóc nào.

Ở góc bếp, cái phong bì vàng của tòa án được kẹp ngay ngắn bên quyển gia phả bản sao, trang cuối có tên một đứa trẻ viết bằng mực đỏ. Tôi bỗng nhớ, lần đầu tôi nghe tiếng muôi gõ vào thành nồi hôm nào, nó là một tiếng cảnh tỉnh. Còn hôm nay, tiếng muôi gõ vào nồi lẩu rau kêu “coong” một tiếng, nhẹ, nhưng xa. Mít chạy vào, hỏi: “Mẹ ơi, mai mình về Quảng Trị chơi hông?” Tôi nghĩ một thoáng, rồi gật: “Về. Về thăm… bà. Và ăn canh bột gạo.”

Con bé reo lên, chạy vòng quanh, bím tóc tung như cánh chim. Còn tôi, tôi mở hũ mắm ruốc, mùi thơm thầm lặng bốc lên, phủ lên căn bếp một lớp ấm không nhìn thấy, như một lời hẹn—rằng trong ngôi nhà này, trên cái bàn này, con gái hay con trai đều sẽ được bày ra những món ngon nhất mà lòng người có thể nấu. Và nếu có ai hỏi vì sao, tôi sẽ nói: vì đã từng có một ngày, người ta bảo tôi chỉ đáng ăn cá khô với cơm trắng. Hôm ấy, tôi học được cách tự nấu lấy bữa tiệc của mình. Và tôi chọn kết thúc câu chuyện ở đó—ngay khi nắp nồi lẩu hé ra, hơi bốc lên mờ cả kính cửa, che mờ những cái bóng cũ, để lại một bếp mới, sáng, và yên.

Related Posts

Our Privacy policy

https://cantho24.com - © 2025 News